Sep 2, 2011

Đọc thơ Nguyễn Trãi -Đề Yên Tử Sơn.

Đọc Thơ Nguyễn Trãi
Đề Yên Tử Sơn, Hoa Yên Tự     
Pham Thảo Nguyên                                                        
Ngày xuân chúng ta hãy theo Nguyễn Trãi lên núi thiêng Yên Tử lễ chùa Hoa Yên:


Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng



Chùa Hoa Yên, Núi Yên Tử

Trên đỉnh núi Yên cao tót vời
Canh năm vừa tới, trời hồng tươi
Mắt nhìn vũ trụ ngoài tầm biển
Người đứng giữa mây nói nói cười
Bọc cửa măng nhô nghìn mẫu trúc
Đá treo châu chảy nửa lưng trời
Nhân Tôn di miếu còn ngay đó
Trong ánh hào quang mắt Bụt ngời
           
Bình chú:

Khi được đọc bài thơ này của Nguyễn Trãi, câu thơ thứ tư đã thu hút tôi lạ lùng:   
 Tiêú đàm nhân tại bích vân trung.
(Nói cười người ở trong đám mây xanh)
Một câu thơ ung dung tự tại, thanh thoát, chữ dùng rất giản dị nhẹ nhàng, mà sao ta thấy chan hoà một tư cách cao vòi vọị của người thơ. Và bài thơ dich chỉ viết xong khi tôi tạm bằng lòng câu:
Người đứng giữa mây nói nói cười.
Nhưng thật ra để nói lên tâm tình Nguyễn Trãi, thì phải có đủ cả hai câu 3, 4:
Mắt nhìn vũ trụ ngoài tầm biển
Người đứng giữa mây nói nói cười.
Không phải là vẻ kiêu hãnh tự hào, lời thơ nhẹ như không, nhưng đầy nức sự thoả lòng vì công cuộc giải phóng đất nước do Lê Lợi cầm đầu, vừa đánh đuổi xong giặc Minh, kẻ xâm lược hỗn sược phương bắc, Nguyễn Trãi, người có công đầu, sác nhận rằng:
 “Giữa vũ trụ này, đây là đất của tổ tiên ta, dân ta đã oai hùng dành lại được, là nơi ta đặt chân đứng lên làm chủ, cười cười nói nói hiên ngang giữa mây trời”.
(Đó cũng chính là tấm lòng đầy xúc động của một người dân Việt thời nay, đứng tại đỉnh núi thiêng Yên Tử phủ mây, vào lúc tang tảng sáng, chứng kiến tận mắt cảnh trời núi ửng hồng. Với tầm mắt vượt ngoài vịnh Hạ Long diễm lệ dưới kia, người đó nhìn ra vũ trụ, thấy mình đang đứng giữa mây núi quê hương, lo lắng cho đất nước trước hoạ xâm lăng).
Sau đó, trong khoảng trời mây núi mênh mông, rừng trúc bạt ngàn, suối, thác, uốn lượn của Yên Tử Sơn, Nguyễn Trãi tới lễ trình miếu thờ vua Trần Nhân Tôn. Ngài là chủ nhân đất nước này, người chỉ huy tối cao của quốc dân trong hai lần cuối cùng phá giặc Nguyên Mông xâm lấn vừa mới hơn một thế kỷ trước (1385, 1388), mà cũng là tổ tiên dòng họ ngoại, của mẹ ông. Khi ngửng lên chiêm bái, ông thấy tượng một vị sa môn đầu đà tu khổ hạnh, nét mặt thanh thản không vướng chút bụi trần. Ông thấy cốt cách nhà vua đắc đạo của Đại Việt, người được con dân thời đó gọi rất thân thương là “vua Bụt”, hiện lên trong ánh hào quang, với đôi mắt có hai con ngươi nhìn ông như chan hoà hồn thiêng sông núi.

Hình như đối với phần lớn người Việt chúng ta, danh xưng “Vua Bụt” như còn xa lạ. Đó chính là do âm mưu thâm độc của giặc Minh, chỉ trong hơn một chục năm chiếm đóng đất nước ta: Chúng muốn xoá tận hết văn hoá dân ta, chúng đã phân chia nước ta thành quận huyện của Tàu, tất cả tài liệu về văn minh Đại Việt xưa, nhất là chữ Nôm, quốc ngữ của dân ta, đã bị chúng cố tình huỷ diệt. Cho nên hiện nay, ta gần như chỉ còn lại bốn bài phú chữ Nôm hiếm hoi của thời đó, còn cất dấu trong các chùa chiền xưa cũ, trong đó có bài Vịnh Vân Yên Tự Phú viết bởi Tam Tổ Huyền Quang, còn có danh hiệu này:
 …   nhèn chi vua Bụt tu hành…
Ngoài ra danh xưng Bụt dành cho Phật còn có rất nhiều trong những thư tịch đời xưa, ngay trong ca dao:
 Gần chùa gọi bụt bằng anh
Thấy bụt hiền lành cõng bụt đi chơi. 
cũng như trong Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, và nhiều tư liệu đời Trần, Lê khác:
..Thân đà hết luỵ thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng, bụt há cầu…(Mạn Thuật, bài 5)
…Dù bụt dù tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông này..(Mạn Thuật, bài 6)…

                                                          Phạm Thảo Nguyên

Bạt Hậu:

Tôi nhân được lời phê bình của một người bạn thâm nho như sau:
Trong bài thơ Đường luật này của Nguyễn Trãi, hai câu thơ 3, 4 :
Vũ trụ nhãn, cùng thương hải ngoại,
Tiếu đàm nhân, tại bích vân trung
Là hai câu luận, phải được hiểu theo luật đối chọi gắt gao như sau:
 Mắt nhìn cảnh vũ trụ, ra tận ngoài biển xanh (với sự thay đổi của thương hải biến vi tang điền)
Nghe tiếng người chê trách (đàm tiếu) , ở trong làn mây xanh biếc .
 Sống trong vũ trụ lúc nào cũng đổi thay này, ta coi vô thường, đàm tiếu như những việc tự nhiên, không cần để ý, theo tư cách rất cao thượng của bậc đại nho.

Đó là một lối đọc cổ điển mà nhiều bài thơ dịch khác đã theo gần gần như vậy. Nhưng ở đây, chúng tôi không muốn theo đường đó, mà đi tìm một cách đọc khác, với ngắt câu ở chữ thứ hai :

Vũ trụ, nhãn cùng thương hải ngoại

Mắt nhìn tới cùng tới vũ trụ bao la ngoài biển xanh (Vịnh Hạ Long) dưới kia,

Tiếu đàm, nhân tại bích vân trung

Nói cười hiên ngang, ta đứng giữa mây trời xanh biếc,( trên đất nước của dân ta),
Hai câu thơ dịch là:
Mắt nhìn vũ trụ ngoài tầm biển
Người đứng giữa mây nói nói cười.
.

Và nghĩ rằng trước cảnh núi mây linh thiêng này, ai mà không cảm thấy ngút ngàn tình sông núi?
Nguyễn Trãi dù đang bị dèm pha, búa dìu khốn khổ với triều đình nhà Hậu Lê lúc sơ khai, toàn kẻ vũ dũng, đã phải “xin về”, chắc cũng thấy những chuyện đó mờ đi trước đất nước mênh mông vừa đánh đuổi được giặc, như lời  cha dặn:
Trãi con ơi, tương lai đầy ánh sáng
Ta đứng đây trông suốt được ngàn thu…( Lời Nguyễn Phi Khanh khuyên Nguyễn Trãi, trong Hận Nam Quan, của Hoàng Cầm)
Còn người đọc ngày hôm nay, ai là người không nghĩ đến thời sự?

                                                                                    PTN

No comments:

Post a Comment