Jan 30, 2018

CHỮ KHOA ĐẨU - Bài nghiên cứu của GS.Đoàn Văn Phi Long

Lời giới thiệu : Giáo Sư Đoàn văn Phi Long là giáo sư dạy Toán tại trường Trưng Vương trước 1975. Sau khi định cư tại Úc song song với việc dạy Toán cho nhiều thế hệ học sinh Việt tại gia, từ năm 1987 Thầy còn bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu về Nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Đây là một chương trong khoảng 30 chương của " Nguồn gốc dân tộc Việt Nam". 


Đặc san TV6370 xin cám ơn Thầy Đoàn văn Phi Long đã gửi bài cho, và xin trân trọng giới thiệu đến các bạn TV và độc giả khắp mọi nơi .

CHỮ KHOA ĐẨU
Đoàn văn Phi Long

A. Lịch sử chữ viết
Văn Hóa Hòa Bình . 
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 - 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.

Năm 1923, Madelaine Colani (1866-1943) một nhà khảo cổ nổi danh Pháp khai quật một số hang động tại một vùng Bắc Việt Nam. Bà nhận thấy những chứng vật đào được khác với các nền văn minh trên thế giới nên bà đề nghị “Một Nền Văn Hóa Hòa Bình”. Cả thế giới đều chấp nhận đề nghị của bà. Cùng năm 1923, trong khi bà đào quật một hang động vùng Văn Hóa Hòa Bình, bà tìm thấy hai chiếc điã gốm nhỏ ở chân núi Lam Gan có khắc hai chữ Sĩ và chữ Thượng. Nhưng niên đại cuả hai chiếc điã nhỏ ấy là 8000 TCN, thời gian mà người Tàu chưa có chữ viết. Chữ Sĩ và chữ Thượng phải là chữ viết của dân tộc Hòa Bình thuộc chữ Khoa đẩu. Hai chứng tích này làm điên đầu các nhà khảo cổ vì chữ nhà Thương xuất hiện vào 1300 TCN, tức là 6.700 năm sau chữ viết trên hai điã nhỏ này. Chữ viết Hòa Bình có mặt 2000 năm trước chữ tượng hình Ai Cập. Văn hóa Hòa Bình bao gồm Đông Á như Indonesia, Trung Hoa, Nhật Bản.

Nhà ngôn ngữ học Paul Rivert cho rằng nền văn hóa Hòa Bình cùng với lối chữ con nòng nọc này đã được truyền bá khắp nơi góp phần tạo nên các chữ viết của các dân tộc Thái Lan, Lào, Chăm, Cao Miên, Nam Dương, Miến Điện, Tây Tạng, Ấn Độ, Srilanka (TK 1). Nhà Thương hay nhà Ân, Ân Thương (1766 TCN - 1122 TCN)

Đây là triều đại đầu tiên được công nhận về mặt lịch sử là một triều đại Trung Quốc (TK 2). Khoảng năm 1300 trước Công Nguyên chữ viết đầu tiên được biết đã xuất hiện ở nền văn minh nhà Thương - họ đã phát triển chữ viết có hơn ba nghìn ký tự, một phần là tượng hình và một phần là tượng thanh. Suốt thời nhà Thương (1600 TCN -1050 TCN) không có sử viết để lại chứng minh là chữ Hán được phổ biến thời đó. (Hình 1)

Chữ Thương ( H1)

Những chữ này đã đạt đến giai đoạn “hội ý” mà không qua các giai đoạn căn bản thuần túy tượng hình và chỉ sự nào cả. Như vậy không phải là nguồn gốc chữ Hán vì chữ này cần chữ tượng hình. Sử gia Ta, Tây và Tàu không biết dân nhà Thương là ai nên không biết nguồn gốc chữ nhà Thương. Xin xem chương Nhà Thương ở kỳ tới.

Nguồn gốc chữ Hán
Theo lệnh của Chu Tuyên Vương (827TCN – 782 TCN), các Thái sử đã thêm bớt chữ khoa đẩu tạo ra chữ Đại triện viết sử để mọi sắc tộc có thể đọc được, 2.827 năm trước khi chữ giáp cốt được đào quật lên năm 1899 ở vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều. Vậy chữ Hán bắt đầu với chữ Đại triện. Chữ khoa đẩu không phải là chữ nhà Thương vì chữ nầy gần với chữ Hán, xem hình bên dưới. Tại sao không dùng chữ nhà Thương mà dùng chữ khoa đẩu? Lý do là các học giả nước Lỗ, Sở, Việt, Ngô, Tần, Tề… đều thấm nhuần tư tưởng của Khổng Tử thì họ và các môn đệ phải có cùng một chữ viết và tiếng nói với nước Lỗ, đó là chữ khoa đẩu và vì tượng thanh nên có đầy đủ chữ để diễn tả mọi sự việc (TK 3).
Chữ nhà Thương có rất ít từ thông dụng, chắc không tới 1000 từ. Phải đổi ra chữ Đại triện để thống nhất tiếng nói và chữ viết.

Năm 213 TCN, theo lệnh của Tần Thủy Hoàng, Thừa Tướng Lý Tư chỉnh đốn lại sự hổn độn văn tự, sắp đặt lại cho thống nhất, giải thích cách cấu tạo, ý nghĩa các chữ mà không sáng tạo thêm chữ mới nào cả. Ông cho xuất bản 3.300 chữ được goị là Tiểu triện. Vậy Đại triện và Tiểu triện không khác nhau còn đậm màu chữ khoa đẩu của người Việt.


Khoa Đẩu Thành Hán (Hình 2)


Chữ Lạc Việt ờ Quảng Tây ( 2011)
Chữ viết Lạc Việt này có mầm mống vào thời đầu của thời đại đồ đá mới, hình thành vào thời kỳ đỉnh cao của 'văn hóa xẻng đá lớn' (4000-6000 năm trước), vào thời đầu của thời đại đồ đá mới. Khối đá có chữ viết lớn nhất là dài 103 cm, rộng 55 cm, trên bề mặt khắc đầy mấy trăm tự phù, phần lớn là chữ cúng tế và lời chiêm bốc, trên những phiến đá này có hơn 1000 tự phù và tìm thấy đàn cúng tế loại lớn của người Lạc Việt cổ ở trên núi Đại Minh - tỉnh Quảng Tây. Nó cho thấy chữ viết của người Lạc Việt cổ sớm hơn chữ giáp cốt của nhà Thương ở Trung Nguyên đến hơn 1000 năm, phá bỏ quan niệm tổ tiên của dân tộc Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết. (TK 4)
So sánh chữ Lạc việt Quảng Tây và chữ nhà Thương
Từ Zhuang người Trung Hoa dùng sai vì người Thái không bao giờ tự xưng mình là Zhuang hay một từ có gốc từ Human. Hơn nữa không có người Quảng Tây mà chỉ có người Quảng Đông ở Quảng Tây. Như vậy Lạc Việt là người Việt chớ không phải người Thái. Sau cùng chữ Lạc Việt không giống chữ Hán mà giống chữ khoa đẩu của người Việt hơn là chữ của người Thái vốn là vay mượn chữ người Việt.

Chữ Quảng Tây (hình 3)

Khổng tử (551 TCN, 479 TCN)
Khổng An Quốc, cháu 12 đời sau của Khổng Tử đã ghi trong bài tựa cuốn Thượng Thư (Kinh Thư) như sau: “… thời Lỗ Cung Vương, thích sửa sang cung thất, Vương cho phá nhà cũ của Khổng Tử để mở rộng thêm. Trong tường nhà tìm được Thư; phần: Ngu, Hạ, Thương, Chu cùng Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ Khoa Đẩu cổ văn. Khổng Tử học chữ khoa đẩu và Lễ giáo từ người Việt. Lễ giáo là Hindu giáo được truyền bá vào Trung Hoa, VN như đồng bóng miền Bắc, nhạc lể của miền Trung.
Thiền sư Lê Mạnh Thát
Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả (TK 5).
Chỉ dùng phương pháp Suy luận năm 2002 trong bài Triệu Đà của ĐVPL có viết rằng Triệu Đà không có chiếm Giao Chỉ, Cửu Chân mà chỉ nhận ấn tín mà thôi vì nhiều triều đại ở VN coi Triệu Đà là như người một nhà:

Đầu tiên là hai bà Trưng (40-42 AD) đánh lấy 65 thành tức chiếm lại toàn bộ nước Nam Việt của Triệu Đà. Hai Bà sống cách đời cuối họ Triệu có 150 năm ắt phải hiểu rõ đầu đuôi gốc ngọn của các diễn biến. Nếu bảo rằng Triệu Đà là kẻ xâm lăng thì sao hai Bà chẳng những dành lại Giao chỉ mà còn chiếm luôn cả đất của họ Triệu? Và tại sao mọi nơi đều cùng nhau hưởng ứng, kể cả chủng tộc Thái Quảng Tây?
Kế tiếp là Lý Bí hay Lý Bôn (541-547) người Tàu ở 7 đời thành người Việt đánh đuổi nhà Lương ra khỏi Giao Châu, tự xưng Nam Việt Đế tức Lý Nam Đế. Đinh Bộ Lĩnh (968 -980) đặt tên nước là Đại Cồ Việt và phong con trưởng tên Liễn làm Nam Việt vương.
Năm 1251 Lý công Uẩn nhà Lý đặt tên nước là Đại Việt, bỏ bớt chữ cồ. Như vậy là tới thời nhà Lý người Việt quên mất ý nghĩa quan trọng của từ cồ.
Nùng Trí Cao (1048) người Thái đánh phá Tống chiếm được đật châu của Quảng Đông và Quảng Tây, đặt tên nước là Đại Nam.
Lý Thường Kiệt phá Tống (1074) đòi lại Lưỡng Quảng củaTriệu Đà. Cách nhà Triệu hơn một ngàn năm mà còn đòi đất của Triệu Đà? Cũng may là nhà Lý không cai trị dân Tàu, bằng không nước ta đã bị hòa tan vào nước Tàu như Mông Cổ, Mãn Châu đã bị biến thành vùng đất Tàu vì đã đô hộ nước Tàu.
Năm 1802 vua Gia Long sai đại sứ Lê Quang Định sang Trung Hoa xin nhà Thanh tấn phong và đặt tên nước là Nam Việt sau cùng phải đổi thành Việt nam.

B. Chữ Khoa đẩu bởi Giáo thụ Đổ văn Xuyền (TK7)

Nhà nghiên cứu 90 tuổi bỏ ra 50 năm tìm chữ Việt cổ nhiều nhất ở Thanh Hòa tức Cửu chân quê hương của Bình Định Vương Lê Lợi.

Chữ Mường (Hình 4) 

Hai mươi bốn chữ cái Mường (Thanh Hóa), trang 19 TK 6, hơi khác chữ khoa đẩu của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền.

Tại sao người Mường, Thái, Chàm có chữ viết mà VN không có chữ viết, chỉ dùng chữ Hán sau đó chữ Nôm? Lý do là người Giao chỉ bị Tàu cai trị trên 1000 năm, cấm xữ dụng chữ viết khoa đẩu, sách vở đều bị thiêu đốt hay mang về Tàu, thay vào đó Sĩ Nhiếp mở trường dạy và thi Hán tự. Ngay cả hiện nay cũng thích chữ Hán, ai không dùnd thì bị cho là nôm na mách qué hay quê mùa. Người Mường thích ở nơi rừng núi và có tinh thần chống đối mạnh mẽ hơn nên ít bị đồng hóa, giống như ở Miến Điện người Mon còn giữ được tiểu ban Mon trong khi người Khmer bị đồng hóa còn bên Trung Hoa người Iu Miên bị đồng hóa còn người H’Mong ở rừng núi nên ít bị ảnh hưởng.
Người Mường ở Cửu Chân ít bị ảnh hưởng của người Hán vì người Giao Chỉ lập nước ở đồng bằng trong khi người H’Mong ở Cửu Chân sống ở rừng núi gìn giữ được chữ Mường, và đây cũng là chữ cổ của Giao chỉ.

Lên mạng để kiểm chứng lại thì thấy có hơn 30 websites ở VN nói về chữ Mường nhưng chẳng thấy chữ Mường nào cả, được giải thích là không có unicode chữ Mường nên không liệt kê ra được. Chuyện nhỏ thôi chỉ cần scan hay chụp hình là xong ngay.

Chữ khoa đẩu được gọi chữ nòng nọc. Đổi từ HV ra Quan Thoại thì khoa là ke tức con nòng nọc còn đẩu là dõu tức rung rẩy. Vậy khoa đẩu là con nòng nọc rung, tiếng Anh là tadpol script thu gọn của tadpol trempling script.

Thay cho chữ Mường, đi tìm chữ khoa đẩu thì có hơn 30 website đăng hình chữ này.

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, Tiền biên, quyển 1 viết như sau: “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch”.

Chữ khoa đẩu cho thấy tiếng Việt chưa bị ảnh hưởng tiếng Hán nên không có âm V, qu, không phân biệt c và t, n và ng cuối từ, có các âm uơt quờn chỉ có ở miền Nam và Campuchia nghĩa là giống phát âm miền Nam vốn không bị ảnh hưởng tiếng Hán.

Bảng tóm tắt chữ Khoa đẩu Việt. Muốn rõ thêm chi tiết xin xem TK 7


Chữ Hán học bảy năm được 2000 chữ đủ để coi báo, muốn nghiên cứu phải học thêm ít nhất 10 năm. Chữ Quốc ngữ học ba tháng còn chữ khoa đẩu nếu dùng bảng tóm tắt trên thì người lớn trong một hai ngày là có thể đọc và viết được.

Đoàn Văn Phi Long

Tham Khảo
1 . Viêt tộc có chữ viết không? Nguyễn Thành Đệ
/vinh2sg.wordpress.com/2015/09/27/viet-toc-co-chu-viet-khong/
2. Nhà Thương vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Thương
3. Việt tộc có chữ viết không ? Nguyễn Thành Đệ
luanhoan.net/gocchung2014/html/bm%2015-3-2014%2016.htm
4. Chữ Lạc Việt Quảng Tây
diendan.lyhocdongphuong.org.vn/chu-de/23954-chữ-việt-cổ-ở-nam-dương-tử/
5. cvdvn.net/2016/08/05/thien-su-le-manh-that-va-nhung-phat-hien-lich-su-chan-dong-7-phan/
6. Việt Nam Văn Học Toàn Thư của Hoàng Trọng Miên
7. Professeur Đổ văn Xuyền
Lysoviet.vn/index.php?threads/Đi-tìm-chữ-việt-cổ-bản-dự-thảo-lần-thứ-nhất-để-xin-ý-kiến.1045
Nếu khó tìm thì dùng Google Advanced Search

Jan 26, 2018

LỢI ÍCH CỦA VIỆC HÍT THỞ-BS Đỗ Hồng Ngọc

LỢI ÍCH CỦA VIỆC HÍT THỞ
             
 Ai thở sâu thì sống lâu.


Elizabeth Barrett Browning


Hít thở là sự sống. Bạn có thể nhịn ăn trong vài ngày nhưng không thể nhịn thở trong vài phút. Chỉ ngộp thở trong vài phút thôi cũng sẽ giết chết bạn.

1- Khoa học đã chứng minh: đủ lượng oxy trong cơ thể sẽ giết tất cả vi trùng, vi khuẩn và vi-rút. Tiến sĩ Otto Warburg đoạt giải Nobel năm 1931 nhờ chứng minh được ung thư sẽ không phát triển trong môi trường giàu oxy. Hiện nay, giới y khoa đều biết hầu hết bệnh đau tim đều do thiếu oxy.

Các bạn nên chú ý về hít thở nếu muốn trẻ lâu. Lão hóa là do cơ thể bị nhiễm độc do hấp thu phải chất độc và sự hư hỏng các tế bào. Những người trẻ lâu nhờ vận động nhiều và tống chất độc ra hiệu quả. Điều đầu tiên cơ thể bạn làm để tống chất độc là kết hợp chúng với oxy.

2- Chức năng của hít thở:
- Cung cấp oxy vào máu cho máu tuần hoàn đến não
- Kiểm soát năng lượng sống, từ đó kiểm soát tâm trí của bạn.

3- Kiểu hít thở:
- Ning
- Trung
- Sâu

4- Công dụng của hít thở:

Tăng năng suất, tăng sinh lực, tăng sáng tạo, vui vẻ hơn, ngăn chặn lão hóa.

Hầu hết vùng phổi của bạn nằm ở lưng. Hầu hết con người hít thở nông bằng miệng, ít sử dụng cơ hoành. Cách hít thở này khiến cơ thể chỉ sử dụng phần trên cùng của phổi nên hấp thu được một lượng nhỏ oxygen. Do đó dẫn đến bạn thiếu năng lượng sống và dễ có nguy cơ bệnh tật. Chưa kể thở bằng miệng dễ khiến hơi thở của bạn có mùi.

5- Cách Hít Thở Tối Ưu
Đây là cách hít thở đúng: một nhịp hít thở bao gồm ba phần:

Hít – Giữ – Thở

Bạn hít bằng mũi, miệng đóng lại, thở ra cũng bằng mũi.

Hít thở theo nhịp 1-4-2. Hít vào 1. Giữ trong 4. Thở ra 2.

Khi hít vào phần bụng phồng ra để cơ hoành di chuyển xuống dưới mát xa các cơ quan nội tạng. Tưởng tượng một quả bong bóng căng phình ra.

Khi thở ra phần bụng thóp vào để cơ hoành di chuyển lên trên mát xa trái tim nhỏ bé của bạn. Tưởng tượng bụng như máy hút bụi co rút lại.

Bài tập: Hít vào trong 5 giây. Giữ trong vòng 20 giây. Thở ra trong 10 giây.
Bạn có thể nâng số lần lên dần dần. Đạt được đến nhịp 10-40-20 là bạn đã đặt chân vào thế giới hít thở của các thiền sư thông tuệ Ấn Độ.
Đừng cố gắng quá sức.

Ngạt thở chết luôn. Thử mỗi ngày hít thở như vậy 3 lần, mỗi lần 10 phút. Bạn sẽ cảm thấy nguồn năng lượng của mình cuộn chảy và tâm hồn bình an.

Các bạn nên tập vào buổi sáng tinh mơ khi mới thức dậy, buổi trưa khi nghỉ ngơi, buổi tối trước khi đi ngủ 10 phút.

Lần đầu tiên tập hít thở, các bạn sẽ cảm thấy năng lượng tràn đầy. Bạn sẽ cảm thấy như có một nguồn suối lạch chảy thông khắp cơ thể.

Sau 7 ngày đầu tiên tập hít thở bạn sẽ cảm nhận được sức khoẻ chuyển biến rất tốt.

6- Hơi Thở và Tâm Trí

Bạn có để ý khi mình sợ hãi, căng thẳng, mệt mỏi, hơi thở của bạn gấp gáp và rất nông không?

Bạn có để ý khi mình thư giãn, bình tâm, bạn thở chậm và sâu hơn không?

Hít thở ảnh hưởng đến tâm trí của bạn.

Thở có thể thay đổi cuộc sống của bạn.

- Nếu bạn cảm thấy căng thẳng, hãy thở. Thở sẽ làm bạn bình tâm và làm dịu những nỗi đau.

- Nếu bạn lo lắng về điều gì sắp xảy ra, hoặc vướng vào một điều đã qua, hãy thở. Thở sẽ mang bạn trở lại hiện tại.

- Nếu bạn thiếu dũng cảm và quên đi mục đích sống của mình, hãy thở.

- Nếu bạn có quá nhiều việc phải làm, hoặc bị xao lãng trong ngày làm việc, hãy thở. Thở sẽ giúp bạn tập trung vào điều quan trọng nhất bạn cần làm ngay bây giờ.

- Nếu bạn đang dành thời gian với một người bạn yêu thương, hãy thở. Thở sẽ giúp bạn cảm nhận giây phút hiện tại với người ấy, thay vì nghĩ lan man vềnhững việc khác bạn cần làm.

- Nếu bạn đang tập thể dục, hãy thở. Thở sẽ giúp bạn tận hưởng bài tập, và nhờ vậy bạn sẽ tập được lâu hơn.

- Nếu bạn đang di chuyển quá nhanh, hãy thở. Thở sẽ nhắc nhở bạn đi chậm lại và thưởng thức đời nhiều hơn.

Chúng ta hãy thở đi. Và tận hưởng từng giây phút của đời này.

90% năng lượng của bạn nên đến từ hít thở. Thở là cách quản lý căng thẳng tốt nhất. Trên thế giới có những chuyên gia dạy về cách hít thở. Yoga cũng là một cách tập hít thở siêu hiệu quả. Cách hít thở trong bài viết nầy là cách đơn giản nhất giúp mọi người mau chóng cải thiện sức khỏe.

THỞ ĐỂ CHỮA BỆNH

Từ hàng ngàn năm nay, con người đã biết tự chữa bệnh cho mình qua Yoga, Khí công và Thiền. Tuy nhiên, qua các lý luận bao la đầy vẻ kỳ bí của các phương pháp này đã làm cho nhiều người chán ngán.
Dưới đây, xin được giới thiệu về những kinh nghiệm về phương pháp thở của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Bác sĩ từng là bệnh nhân đã được khỏi bệnh chỉ nhờ biết thở đúng cách.

Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ, sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học ĐH Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941.

Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở BV Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái Các bác sĩ Pháp bảo, ông chỉ có thể sống chừng hai năm nữa thôi.

Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp... thở để tự chữa bệnh cho mình, và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa, hoạt động tích cực, năng nổ trong nhiều lĩnh vực. Chuyện khó tin nhưng có thật!

BS. Đỗ Hồng Ngọc bạn của BS Viện viết: "Tôi may mắn được quen biết ông trong nhiều năm. Với tôi, ông vừa là đồng nghiệp, là đàn anh mà cũng là người thầy. Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý-xã hội học do tôi phụ trách tại Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP.HCM, (nay là ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch) ngay từ hồi mới thành lập (1989). Ông thường trao đổi với tôi điều này điều khác, về công việc viết lách, giảng dạy, và nhiều lần về phương pháp thở dưỡng sinh của ông. Trao đổi không chỉ về cơ thể học, sinh lý học mà cả về tâm lý học, đạo học.

Có lần ông mở áo cho tôi xem mấy vết mổ vẫn chưa hoàn toàn liền lạc trên ngực ông. Lần khác ông lại cao hứng vén bụng bảo tôi thử đánh mạnh vào bụng ông xem sao. Tôi phục ông ốm nhom ốm nhách mà làm việc thật dẻo dai, bền bỉ, gần như không biết mệt mỏi.. Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc... thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa "dung tích sống" như ông lại vẫn ung dung, thư thái. Ông cười "tiết lộ" với tôi, những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi... thở, nhờ vậy mà ông không bị stress (căng thẳng) , không bị mệt.

Ông nói sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu của ông.

Trước kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Cho đến ngày tôi bị vố tai biến nặng, phải nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều kỳ diệu!

Nó làm cho tôi thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp thương tình, cho rất nhiều thuốc, nhưng tôi chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ... dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Và cho đến hôm nay, khi đã hoàn toàn bình phục, thở có phương pháp đã thành một quán tính tự nhiên từ lúc nào tôi cũng không thể nhớ rõ.

Xin ghi lại đây, như một sự biết ơn, về chuyện “thở” với nguyện ước rằng, sẽ có nhiều người “biết thở” đúng phương pháp, để nhờ đó có thể tự chữa bệnh và tăng cường sức khỏe cho mình.
Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là cái gì hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh... của Đông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc.

Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:

Tóm lại như sau cho dễ nhớ:

1- Phình bụng hít vào
Thót bụng thở ra
Chân tay thư giãn

2- Hít chậm - thở sâu

3- Để ý hơi thở
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được!

hay

Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được!

BS Đỗ Hồng Ngọc (dohongngocbs@gmail.com)

Thục sưu tầm

Jan 20, 2018

Chia buồn cùng Thiên Nga cùng tang quyến




Được tin  trễ chị của TV6370 Thiên Nga

Bà Vũ thị Thiên Hương

đã về với Chúa






Xin chân thành chia buồn cùng bạn
Thiên Nga và tang quyến
Nguyện cầu hương linh của chi được an nghỉ cõi vĩnh hằng

Các bạn TV63-70

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU





Jan 17, 2018

Phiên Phiến Tuổi Già-Tràm Cà Mau



Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại! Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết!!! Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau. Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: "Mai mốt tôi già rồi thì... Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: " Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà cụ chỉ cười, không đáp lại! Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: "Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ! Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế! Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít! Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ”!!! 

 Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi! Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già! Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày! Nói về cái tai điếc, ông nói: "Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu! Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng! Rồi cứ tưởng nhạc dở! Đó là dấu hiệu già.!!! Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn”!!!

 Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai”! Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm! Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa! Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn! Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng! Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe! Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây! Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi!!! 

 Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc! Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực?. Phải mừng chứ đừng bực! Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi! Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho! Phải biết cảm nhận và cám ơn trời!!! 

 Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không? Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu? Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào! Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm! Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng!!! 

 Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một "lão trượng" đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả! Ông đoán chắc, chín mươi phần là "lão trượng" kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ! Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia! Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh?! Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt!!! 

 Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế? Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi! Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai? Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin! Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn!!!

 Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt! Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho! Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy!!! 

 Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho! Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp!!! Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là: 1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường xuyên! Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết! Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ! Đừng say sưa là được!!! Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn! Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon!!! Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa! Sợ chết là vô lý! Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn! Ai cũng sẽ chết cả!!! 

Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ! Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp! Lấy ai làm mà nuôi các cụ?!? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó! Có chi mà buồn?! Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ! Khoẻ ru!!! Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều! Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao?! Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc!!! Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất! Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán! Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời!! Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối?. Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có! Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa! Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà ra rác!”. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo!!! Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được! Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra! Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm!!!

 Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh! Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được!!! Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường! Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh! Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú!!! 

 Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn! Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi! Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi! Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu.!Bà sẽ lịch sự hơn!!! Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm! Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà!!! Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ!!! Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: "Mình phải biết tự thương mình! Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được! Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng!" Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm! Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm! Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh!!! 

 Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ! Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm! Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên! Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban đêm khó ngủ là chuyện thường!!! Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng! Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn!!! Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh! Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn! Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương! Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh! Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa! Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ!!! 

 Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ! Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ! Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật! Đêm không cho đi ngủ sớm! Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau!!! Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả! Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon!!!”. Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó! Khắc kỷ cũng là điều hay! Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi! Nên cứ xem mọi sự như trò chơi!!! Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn! Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều! Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn!!! Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả! ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức! Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được! Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán!!! 

 Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai! Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau?. Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất! Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại?. Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình! Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn!!! Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn! Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết! Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét?! Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng! Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả! Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự! Có ích lợi gì đâu?! Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề!!! Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá "lừng"! Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình "lừng" đi, cho họ sướng!!! 

Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên hạ, mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việ! chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol-Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông! Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận!!! Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách! Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá! Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn!!! Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng! Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm!!! Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn! Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được! Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ! Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả!!! 

Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu! Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng! Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được!Chết chưa an lòng! Ông nói: "Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm! Yên tâm mà dưỡng bệnh đi!!!”. Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời! Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, không ai chửi cả! Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng! Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm! Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn! Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ! Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc!!!”.

 Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau! Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện! Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc! Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn đậu không phải Mễ! Không đi trễ, không phải Việt-Nam!!!”. Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình!!!

Tràm Cà Mau

 Lan Nguyễn sưu tầm

Jan 15, 2018

HOA RỰC RỠ VÀ DỊ THƯỜNG


Danielle G.

Hoa là một trong những sáng tạo tuyệt vời nhất của tự nhiên - chúng thường được nhìn thấy tuyệt vời, hầu hết trong số chúng phát ra mùi hương rất dễ chịu và tốt nhất của tất cả.
Chúng tôi sử dụng chúng để trang trí như cử chỉ lãng mạn và để biểu thị sự tự do và tình yêu (của 60 "hoa trẻ em"). Không phải tất cả hoa đều giống nhau, một số có mẫu rất độc đáo, một số rất hiếm khi nở hoa và một số thậm chí không giống như hoa ở tất cả. Hãy tham gia với tôi trên một chuyến đi khám phá những bông hoa lạ và đẹp nhất từ khắp nơi trên thế giới.



Gừng tổ ong (Zingiber Spectabile) là một thành viên của gia đình gừng. Có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, nó chủ yếu được trồng làm cây cảnh mà còn được sử dụng như một loại dược thảo. Nghiên cứu cho thấy rằng cây có đặc tính kháng khuẩn và nồng độ của các enzyme có thể ngăn ngừa ung thư ruột kết.


Đèn lồng Trung Quốc (Physalis Alkekengi) được tìm thấy ở Nam Âu và Xuyên phía đông châu Á, các đèn lồng Trung Quốc có tên từ bìa màu cam tươi sáng của quả giống như một chiếc đèn lồng giấy. Những trái cây tự nó có tính chất kháng khuẩn và đặc tính có lợi nhất có thể cho những người bị bệnh gan mãn tính.


Hoa Mèo đen (tacca chantrieri) nhà máy này không bình thường là một trong những nhà máy chỉ trong thế giới có hoa màu đen. Những bông hoa lớn (lên đến 12 inches) thậm chí còn "râu", cho nó tên thông tục của nó. Nó có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của khu vực Đông Nam Á.


Hoa Sáp (Hoya) là một gia đình lớn thường xanh dây leo có nguồn gốc từ Đông Nam Á và Úc. Chúng đã đạt được những tên "Waxplant" nhờ hoa của chúng. Những bông hoa luôn luôn phát triển trong chùm (gọi là cựa gà), có năm cánh hoa hình tam giác dày trông như thể chúng đã được chạm khắc trên sáp. Hầu hết waxplants có một mùi hương hấp dẫn và mật hoa dồi dào.


Kẹo cây me chua (Oxalis versicolor) có nguồn gốc ở Nam Phi và có tên của nó nhờ hoa tuyệt đẹp giống như một cây gậy kẹo.


Bầu rắn (chi dưa núi cucumerina) là một loại gốc nho có ở Đông Nam Á và Tây Bắc Úc. Được sử dụng như một loại rau, một loại thuốc và ngay cả trong việc xây dựng các didgeridoos truyền thống.


Hoa Mỏ vẹt (clianthus) là một thành viên của gia đình họ đậu, và có tên từ hình dạng của hoa của nó, mà giống với cái mỏ của con vẹt New Zealand Kaka.



Mỹ ma lan (Dendrophylax lindenii) là một phong lan có lá mọc ở Bahamas, Cuba và Florida. Các nhà máy neo mình vào thân cây và rễ chính họ là quang hợp.



Zebra anh thảo Xanh (Primula acaulis 'Zebra Blue ") là một phân loài của hoa anh thảo với một mô hình màu xanh và màu trắng riêng biệt trên cánh và một trung tâm vàng đó được hưởng một thời gian ra hoa kéo dài.







Hoa bóng (cát cánh grandiflorus) có tên của nó nhờ vào cách cánh hoa của nó phát triển trước khi nở. Các cánh hoa được hợp nhất với nhau, sưng lên như một quả bóng trước khi nở hoàn toàn. Nó được biết đến với đặc tính chống viêm của nó gốc của, được sử dụng để điều trị ho và cảm lạnh.



Niềm đam mê trái cây (Passiflora edulis) là một cây nho côn trùng là loài đặc hữu của Nam Mỹ.Những bông hoa tuyệt đẹp và các loại trái cây phổ biến trên toàn thế giới.



Phong lan hài bà Hoàng (CYPRIPEDIUM CALCEOLUS), tên xuất phát từ cypripedium Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "giày của Venus".



Nho Bích ngọc (Strongylodon macrobotrys), loài đặc hữu của các khu rừng của Philippines, nó có liên quan đến các loại đậu và được thụ phấn nhờ dơi. Một gốc có thể đạt chiều dài 3 mét (10 feet) và mang tới 75 hoa.



Phong lan khỉ (Dracula simia) là một loài phong lan, nguồn gốc ở rừng nhiệt đới của Ecuador. Nó có thể nở quanh năm và có mùi hương của cam chín.



Fritillaria tubiformis là một thành viên của gia đình Fritillaria, được tìm thấy chủ yếu ở các vùng ôn đới như Địa Trung Hải và Tây Bắc Mỹ. Tên đến từ chữ fritillus latin, có nghĩa là "con xúc xắc-box" và đề cập đến mô hình rô trên các cánh hoa.



Hoa trà Nhật Bản (Camellia japonica), một thành viên của gia đình Camellia (nơi trà đến từ), Camellia Nhật Bản đã có một số phân loài, với nhiều hình dạng và màu sắc. Và trong trường hợp bạn đang tự hỏi - có, bạn có thể làm trà từ nó như giếng.



Huệ cóc lông (Tricyrtis hirta) có nguồn gốc ở Nhật Bản, được tìm thấy chủ yếu ở vùng núi đá bóng.


nguồn

Hoa bồ câu trắng đen (Aquilegia) được tìm thấy ở Bắc bán cầu, chủ yếu ở đồng cỏ và rừng cây.Những bônghoa được báo cáo là rất ngọt ngào nhưng cần được tiêu thụ ở mức vừa phải. Các hạt giống, tuy nhiên, rất độc.



Nữ Hoàng đêm (Selenicereus grandiflorus) có tên của nó bởi vì nó nở hoa duy nhất một lần một năm, trong một đêm duy nhất. Đó là một loại cây xương rồng, có nguồn gốc Trung và Nam Mỹ, nơi mà nó cũng được biết đến như là Vanilla Cactus, nhờ hương thơm đáng yêu của nó.



Kèn Thiên thần (cà độc dược) là một cây rất độc (hoa và hạt giống đặc biệt), được tìm thấy ở miền bắc châu Phi và châu Mỹ. Các cây này rất nguy hiểm, họ là bất hợp pháp ở một số quốc gia!
H / T: Distractify.com

Thục chuyển

Jan 12, 2018

Một Chút Lan Man - BS Đỗ Hồng Ngọc


Ngẫm lại sự đời, tôi thấy hình như hầu hết chúng ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai.
Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống.
Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ!
Hừm! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại.
Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy tại sao ta không nghĩ ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải.... nguyền rủa, bất mãn với nó.
Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!


Còn đối với các vị phụ nữ cũng có khi gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia.
Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch...
Thân thể ta cứ tiến triển theo một "lộ trình" đã được vạch sẵn của nó, không cần hỏi han ta, không cần biết ta có “chịu” không! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ.


Trái lại, nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn.
Từ ngày "thế giới phẳng" thông qua internet, ta còn sống với đời sống ảo.
Ta ngồi đây với người nhà nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa.
Khi bắt lại câu chuyện với mọi người bên cạnh thì nhiều khi đã lỡ nhịp!

Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn.
Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại với tôi thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai.
Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó.
Khi biết "enjoy" nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

Từ ngày biết thương "thân thể" của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi... cũng khác tôi xưa.
Tôi biết cho thân thể của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn.
Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá!

Một người bạn tôi mắc bệnh "ăn không được", "ăn không biết ngon" vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương ông quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được?

Giá ông nghèo một chút còn hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn ông ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho thân thể của mình ngủ hơn.
Ngủ đầy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy.
Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao được!

Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết:
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên! (Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền!)
trong bài Cư trần lạc đạo, (ở đời mà vui đạo)!
Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm.
Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn nước ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình.
Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình.
Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

Nên nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đấu óc bắt đầu kém sắc sảo.
Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai.
Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt.
Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi!
Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe được, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy được, không thì khép lại.
Thế là "căn" hết tiếp xúc được với "trần".
Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia.
Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là mắt xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành.

Cái mà người xưa gọi là "hoa đốm hư không" chính là nó.
Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái "tưởng" của ta nhiều khi làm hại ta.
Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua.
Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình.
Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ.
Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả!
Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút.
Có lẽ như vậy hay hơn cho mình.

BS. Đỗ Hồng Ngọc


T.Anh sưu tầm