Feb 12, 2025

Chia buồn cùng gia đình bạn Như Mai, Như Liên và tang quyến

Nhận được tin buồn thân mẫu của TV Như Mai, Như Liên

  

Bà Quả phụ Lê Đình Chữ
Khuê danh Nguyễn Thị Xuyên
Pháp danh Quảng Liên
Mất ngày 12/02/2025
Nhằm ngày rằm tháng Giêng năm Ất Tỵ
Tại Montreal, Canada
Hưởng thọ 100 tuổi



Toàn thể các bạn TV 63-70 xin chân thành chia buồn cùng Như Mai, Như Liên và tang quyến. Nguyện xin hương linh bác được nghỉ an nơi cõi vĩnh hằng.







</

Feb 8, 2025

KHI GIÁO HOÀNG PHIẾM

 KHI GIÁO HOÀNG PHIẾM

SONG THAO


Giáo Hoàng là người lãnh đạo tinh thần của dân Chúa trên khắp hoàn vũ phải là người luôn oai nghiêm và…buồn. Nhưng thực tế không phải vậy. Các Giáo hoàng cũng vui ra phết. Vui nhất là đương kim Giáo hoàng Francis, tên Việt hóa là Phanxicô.


Ngày 14/6/2024, vừa qua Ngài mở đại hội vui bằng cách mời 107 danh hài không phân biệt tôn giáo từ 15 nước tới Vatican dự đại hội. Các cây hài Mỹ phó hội gồm Whoopi Goldberg, Julia Louis-Dreyfus, Jimmy Fallon, Chris Rock, Stephen Colbert, Conan O’Brien, Tig Notaro, Jim Gaffigan. Chỉ có hai ông Colberg và Gaffigan là người Công giáo. Còn hai ông Fallon và O’Brien hồi nhỏ có theo học tại các trường công giáo. Khi được mời, các cây hài này hành nghề liền. Cây hài Stephen Colberg nói: “Giáo hoàng Francis sắp gặp tôi tại Vatican! Tôi hồi hộp chứ. Không biết Giáo hoàng có phải là người Công giáo không?”. Danh hài Chris Rock, người bị Will Smith tát tại buổi lễ trao giải Oscar vì anh này cho là Rock đã xúc phạm vợ anh ta, chắc mọi người còn nhớ. Colberg nhắn Chris Rock: “Chris, vì an toàn của anh nên tôi lấy tên Mary Magdalene ra khỏi miệng anh. Vì Giáo hoàng đeo một chiếc nhẫn lớn lắm!”.
Lên tiếng trước “đại hội” danh hài, Giáo hoàng Francis nói: “Các bạn đã đoàn kết mọi người vì tiếng cười thường lây lan. Các bạn cũng có thể khôi hài với Chúa, dĩ nhiên, vì đó không phải là sự báng bổ. Các bạn có thể làm vậy mà không xúc phạm niềm tin tôn giáo của các tín đồ”. Ngài không đọc bài diễn văn được soạn sẵn mà ứng khẩu sau khi để ngón tay cái ngọ nguậy trên đầu khiến cử tọa cười ồ lên. Ngài cho biết đã cầu nguyện 40 năm để có được năng khiếu hài hước. Ngài nói: “Theo lời dạy của thánh Thomas Aquinas: ai thiếu sự vui tươi là tội lỗi. Tôi sẽ làm theo như vậy để chúng ta cùng cười vui. Ngạn ngữ Ý nói nụ cười mang lại sức khỏe. Nguyên văn tiếng Ý như sau: il sorriso fa buon sangue. Đó là biến thể của một tục ngữ Ý : il vino fa buon sangue. Dịch ra tiếng Anh: wine brings good health. Rượu mang lại sức khỏe!” Hướng về các danh hài, Ngài nói thêm: “Các bạn đoàn kết mọi người vì tiếng cười có sức lây lan. Các bạn tìm cách để khiến mọi người cười, ngay cả khi cần giải quyết các vấn đề và sự việc lớn nhỏ. Các bạn lên án việc lạm dụng quyền lực; các bạn lên tiếng về những tình huống bị lãng quên; các bạn nêu lên những hành vi lạm dụng; các bạn chỉ ra những hành vi không phù hợp”.
Đương kim Giáo hoàng có vẻ rất thích thú về cuộc tụ hội các danh hài này.

 Sáu tháng sau, ngày 17/12/2024, Ngài còn viết một bài báo trên tờ The New York Times. Tôi trích ra một số câu trong bài này qua bản tiếng Việt của nhà báo Đinh Từ Thức. “Châm biếm là một liều thuốc, không chỉ nâng đỡ và giúp người khác được tươi sáng, mà còn giúp cả chính chúng ta, do sự tự giễu là một công cụ mạnh mẽ để vượt qua sự cám dỗ của ái kỷ. Người ái kỷ liên tục soi gương, tự tô vẽ, tự ngắm nghía mình, nhưng lời khuyên tốt nhất khi đứng trước gương là hãy tự cười mình. Điều đó tốt cho chúng ta. Nó sẽ chúng tỏ sự thật của câu tục ngữ rằng, chỉ có hai loại người hoàn hảo: những người đã chết và những người chưa chào đời. Phúc Âm khi khuyên chúng ta trở thành như trẻ nhỏ để được cứu rỗi là nhắc nhở chúng ta tìm lại bản tính dễ cười của chúng”. Ngài tự trào: “Khi tôi bồng trẻ em trong các buổi tiếp kiến tại Công Trường Thánh Phêrô, chúng thường cười rất tươi. Nhưng một số khác, khi thấy tôi mặc toàn đồ trắng, tưởng tôi là bác sĩ tới để chích cho chúng, thì chúng khóc!”.

Vị Giáo hoàng 87 tuổi hiện nay rất thích khôi hài. Có lần Ngài nói với mọi người: “Một chút khôi hài sẽ nâng chúng ta lên, nó chứng tỏ đời sống của chúng ta ngắn ngủi và nâng mọi sự lên tinh thần của đấng cứu chuộc. Đó là một thuộc tính của con người nhưng cũng là ân sủng gắn bó nhất của Chúa”.
Nhà báo Ý Chiara Amirante đã nhiều lần phỏng vấn Giáo hoàng Francis và ghi lại trong cuốn sách Dio è Gioia (Thiên Chúa Là Niềm Vui) xuất bản ngày 19/5/2020 ở Ý. Theo Ngài thì niềm vui Kitô giáo vừa gần với hòa bình vừa gần với khiếu hài hước. Tinh thần hài hước là thái độ của con người gần với ân sủng Chúa nhất vì thế ai thiếu khả năng này thì như họ thiếu một cái gì. Bà Chiara hỏi: “Bí mật vui vẻ của cha là gì?”. Ngài trả lời: “Tôi không biết, tôi không biết trả lời sao. Tôi sống như vậy nhưng tôi không biết giải thích như thế nào”. Ngoài cửa phòng của Ngài tại Nhà Thánh Marta có treo tấm bảng ghi vỏn vẹn hai chữ “Vietato lamentarsi” (Cấm than phiền). 



Ngay khi được hồng y đoàn bầu lên chức Giáo hoàng, Ngài đã khôi hài: “Xin Chúa tha tội cho các ngài!”. Ngài còn có những câu nói khá ngộ nghĩnh như: tôi không từ chối giải tội cho những người trên Hỏa tinh; tòa giải tội không phải là tiệm giặt ủi có thể tẩy vết nhơ của tội; người ta không thể rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu với bộ mặt đưa đám. Một lần Ngài lên máy bay xách một chiếc cặp đen, các nhà báo  ngạc nhiên hỏi, Ngài…phiếm: “Dù sao thì đây không phải là chiếc cặp nhỏ có chìa khóa bom nguyên tử”. Ngài là người Argentina rất mê bóng đá. Mùa giải World Cup 2014, một cận vệ người Thụy Sĩ mời Ngài cùng coi trận Argentina – Thụy Sĩ, Ngài từ chối và cười nói: “Sẽ là chiến tranh mất!”. Trong chuyến Tông du qua Mỹ vào tháng 9/2015, có một em bé được cha mẹ cho mặc bộ áo giáo hoàng toàn trắng trông như một giáo hoàng Francis nhỏ. Ngài cười ngất, ôm bé vào lòng, nói với cha mẹ em: “Các vị có óc hài hước siêu hạng!”. Cũng trong chuyến Tông du của Giáo Hoàng Francis này, Hồng Y Timothy Dolan, Tổng Giám Mục giáo phận New York, kể lại một giai thoại: “Vào cuối chuyến thăm, chúng tôi ngồi bên cạnh nhau trên chuyến máy bay trực thăng ra phi trường để Giáo hoàng đi Philadelphia, Ngài cầm một chai nước nhỏ và hỏi tôi: “Cha có muốn uống một chút không? Đúng là tôi rất khát vì đi theo Ngài, tôi thực sự không uống gì vì không biết lúc nào có thể vào nhà vệ sinh được. Đức Giáo hoàng cười và chọc lại tôi: ‘Bây giờ tôi mới biết là vì vậy! Vậy cha có muốn uống một chút nước không?’. Tôi trả lời Ngài: ‘Cũng không, xin cám ơn cha. Con có uống một giọt whisky Jameson rồi’. Ngài phá lên cười. Khi tôi là người cuối cùng chào Ngài trong buổi lễ tiễn đưa ở phi trường, Ngài đứng xích lại gần tôi, nháy mắt thân mật và nói: “Bây giờ cha có thể uống, không phải một mà hai giọt Jameson để ăn mừng chuyến đi thăm phi thường này!’. Nói xong Ngài lại phá lên cười”.

Tôi quẩn quanh với đương kim Giáo hoàng Francis này khá dài vì Ngài là Giáo hoàng không giống các giáo hoàng trước. Ngài là một tay đua luôn muốn bứt phá. Mới đây, ngày 6/1/2025, Giáo hoàng Francis đã bổ nhiệm một nữ tu, dì Simona Brambilla, giữ chức Tổng trưởng bộ Quản Lý Các Tu Viện Đời Sống Thánh Hiến, quản lý tất cả các dòng tu nam nữ. Hành động này chưa có tiền lệ. Lần đầu tiên có một nữ tu làm tổng trưởng tại Vatican.


Ngày 14/1/2025, Giáo Hoàng Francis sẽ cho phát hành cuốn tự truyện Hope.


 Đây cũng là lần đầu tiên một giáo hoàng có tự truyện đời mình. Cuốn sách được viết trong sáu năm và dự định chỉ phát hành sau khi Ngài qua đời nhưng vì năm 2025 là năm thánh Hy Vọng nên Ngài quyết định cho phát hành sớm. Cuốn tự truyện này viết về những năm khởi đầu thế kỷ 20 khi Ngài mới ra đời. Giáo hoàng Francis người gốc Ý, tổ tiên của Ngài đã di cư qua châu Mỹ Latin. Tuổi thơ của Ngài tại Argentina, tuổi trẻ đầy cống hiến, đời sống tu trì, và những ngày phục vụ dân Chúa cho tới khi lên ngôi giáo hoàng. Ngài cũng tiết lộ những giây phút căng thẳng khi tại ngôi với những dị biệt về những vấn đề của thời đại: chiến tranh và hòa bình, kể cả cuộc chiến Ukraine và Trung Đông; vấn đề di dân; vấn đề môi trường; chính sách xã hội; địa vị của nữ giới; vấn đề tình dục; tiến bộ kỹ thuật; tương lai giáo hội và tôn giáo nói chung.

Một chuyện nữa không giống những vị tiền nhiệm của Giáo hoàng Francis là chuyện lễ an táng khi Ngài về với Chúa. Chúng ta mới mục kích đám tang mới đây của cựu Giáo Hoàng Benedict XVI, mất ngày 31/12/2022, với các nghi lễ phức tạp. Trong cuộc phỏng vấn của một hãng truyền thông Mexico vào ngày 12/12/2024, Giáo hoàng Francis cho biết Ngài đang bàn bạc với Tổng giám mục Diego Ravelli để đơn giản hóa các thủ tục an táng dành cho vị đứng đầu Tòa Thánh. Thứ nhất: Ngài muốn quan tài của Ngài chỉ có một lớp gỗ được lót kẽm thay vì ba chiếc quan tài bằng gỗ bách, chì và gỗ sồi lồng vào nhau như quan tài của các vị tiền nhiệm. Thứ hai: trong lễ viếng của giáo dân, quan tài sẽ không được đặt trên bệ cao tại Vương Cung Thánh Đường mà sẽ để mở nắp. Thứ ba: mộ của Ngài sẽ không nằm tại thánh đường thánh Phêrô như 91 giáo hoàng khác mà sẽ nằm tại thánh đường Thánh Mary Major (Đức Bà Cả) của thành phố Rome, bên ngoài tòa thánh Vatican. Thánh đường này là nơi Giáo hoàng Francis thường đến cầu nguyện trước và sau mỗi chuyến Tông du.

Giáo hoàng Francis là một cây phiếm nhưng các giáo hoàng khác cũng có những lúc khôi hài không kém. Giáo hoàng Piô IX (1846-1878) hỏi một giáo dân tới gặp Ngài rằng ông đã có gia đình chưa, ông cung kính thưa: “Trọng kính Đức Thánh Cha, con may mắn tránh được cái bẫy này”. Giáo hoàng phán ngay: “Lạ nhỉ! Tôi không biết đạo công giáo có 6 bí tích và một cái bẫy!”. Trong một buổi tiếp kiến khác, một bà tới cám ơn Ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, con bị đau một chân từ nhiều năm nay. Con xin được một chiếc vớ của đức cha, mang vào và lành ngay lập tức”. Giáo hoàng Piô IX bật cười trả lời: “Thưa bà, bà thực sự may mắn hơn tôi. Mỗi sáng tôi đều mang hai chiếc vớ nhưng vẫn đi đứng khó khăn!”.

Giáo hoàng Lêô XIII (1878-1903), nhân ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 90 của Ngài, được nâng lên cao giữa đám đông trên chiếc ghế giáo hoàng. Hai phụ nữ hô thật lớn : “Vạn tuế Đức Thánh Cha. Cầu chúc Ngài sống lâu trăm tuổi!”. Giáo hoàng nghe thấy, la lớn: “Các con của cha, sao các con lại hạn chế lòng tốt của Chúa như thế!”. Khi Giáo hoàng Lêô XIII được 92 tuổi, một năm trước khi Ngài qua đời, một hồng y người Mỹ vô ý nói: “Thưa cha, chắc chúng ta không còn có dịp gặp lại trên trái đất này, vĩnh biệt cha”. Giáo hoàng hỏi lại: “Thưa hồng y, Ngài không được khỏe sao?”.
Giáo hoàng Piô X (1903-1914), yêu cầu mọi người đừng vỗ tay trong thánh đường thánh Phêrô. Ngài giải thích: “Chúng ta không vỗ tay cho tôi tớ trong nhà chủ của họ”.

Một hoàng tử hỏi Giáo hoàng Bênêdictô XIV (1914-1922): “Vì sao giáo hội không chia mùa Chay thành 4 kỳ, mỗi kỳ 10 ngày theo 4 mùa trong năm?”. Ngài trả lời: “Giáo hội rất có thể làm được điều này nhưng Giáo hội nghĩ sẽ không thận trọng khi làm như vậy. Vì con người có thể mừng lễ hội 4 lần nhưng nhịn ăn 4 lần thì khó!”.

Giáo hoàng Piô XI (1922-1939) là người khá trang nghiêm, vậy mà cũng có khi Ngài…phiếm. Một ngày nọ, Ngài ngồi cho họa sĩ vẽ chân dung chính thức. Ngài nhìn bức chân dung hoàn thành, có vẻ không ưng ý vì chính Ngài không nhận ra mình. Khi họa sĩ mời Ngài viết một hai chữ ở góc tranh, Ngài viết: “Gioan, chương 6, câu 20”. Họa sĩ ngơ ngác hỏi ý nghĩa câu viết, Ngài cười nói: “Ông về mở Kinh thánh ra sẽ thấy”. Về nhà, họa sĩ vội kiếm cuốn Kinh thánh, mở ra đọc, đó là đoạn trích lời Chúa: “Chính Ta đây, các con đừng sợ!”.

Giáo hoàng Gioan XXIII (1958-1963) nổi tiếng hài hước. Ngài từng tếu: “Tôi thường bắt đầu nghĩ về một số vấn đề quan trọng vào ban đêm. Tôi can đảm lấy quyết định sẽ đến gặp và trình với giáo hoàng vào buổi sáng. Rồi tôi thức dậy trong mồ hôi ướt đẫm và nhớ ra rằng: giáo hoàng chính là tôi!”. Đặc biệt Giáo hoàng Gioan XXIII là người thích tự trào. Khi Ngài vừa được cơ mật viện bầu  làm giáo hoàng, các nhiếp ảnh gia vây quanh Ngài chụp hình, Ngài nói với họ: “Chúa của chúng ta đã biết rõ từ bảy mươi bảy năm nay là có ngày tôi sẽ là giáo hoàng. Vậy mà Ngài không làm cho tôi ăn ảnh hơn một chút sao?”. Trong một bữa ăn tối, Ngài được xếp ngồi gần một bà rất thanh lịch nhưng mặc áo hở ngực quá hở hang. Tới lúc ăn tráng miệng, Ngài đưa mời bà một trái táo. Trước sự ngạc nhiên của bà, Ngài tỉnh bơ nói: “Chỉ khi ăn trái táo, Eva mới nhận ra mình đang trần truồng”.

Giáo hoàng Gioan-Phaolô II (1978-2005), người Ba Lan. Khi Ngài còn là hồng y Wojtyla, một hồng y lớn tuổi khá nghiêm khắc đã khiển trách Ngài vì Ngài thích trượt tuyết, leo núi, đạp xe đua và bơi lội. Vị hồng y già nói: “Tôi không nghĩ đây là những hoạt động phù hợp với vai trò của Ngài”. Vị hồng y trẻ và là giáo hoàng tương lai trả lời: “Nhưng Ngài có biết là ở Ba Lan, ít nhất 50% các hồng y thường có những sinh hoạt này không?”. Vào thời điểm đó, cả nước Ba Lan chỉ có hai hồng y!

Tôi rất khoái máu phiếm của đương kim giáo hoàng Francis nên không thể không trở lại với Ngài. Ngài rất yêu trẻ nhỏ, như Chúa Giêsu ngày xưa. Khi có mấy người mẹ bồng trẻ nhỏ tới gặp Chúa, các sứ đồ ngăn cản họ. Chúa Nói với các sứ đồ: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta vì nước Trời thuộc về chúng”. Rồi Chúa bồng chúng lên và ban phước cho chúng. Trong ngày lễ Gia Đình vào tháng 10 năm 2013, chú bé Didier bị bệnh tự kỷ, thừa lúc Giáo hoàng Francis đang đứng giảng, chú lẻn lên ngồi chễm chệ trên chiếc ghế của Ngài. Hết bài giảng, Ngài tươi cười quay lại nói chuyện với bé. Trong một buổi gặp giáo dân bên ngoài thánh đường Phêrô vào ngày 22/3/2017, một cận vệ bồng một bé gái 3 tuổi tới sát Ngài. Ngài vỗ về bé, bé nhanh tay giật chiếc mũ chỏm Ngài đang đội. Chiếc mũ là biểu tượng quyền uy của người thay mặt Chúa nơi trần thế, đâu có phải chuyện giỡn. Nhưng Ngài  phớt lờ, vui vẻ cười với em bé. 




Chuyện này làm tôi suy nghĩ. Giáo hoàng “bình dân” như vậy có đúng là người thay mặt Chúa nơi trần thế này không? Biết hỏi ai ngoài Chúa. Mở Thánh kinh không thấy Chúa nói năng chi về mũ mãng cả. Nghĩ ra cũng đúng thôi. Các tượng Chúa đâu có cái nào thấy Chúa đội mũ đâu, Ngài  chỉ đội vòng gai.
 
01/2025
Website: www.songthao.com 

H.Phúc ST


PHIÊN PHIẾN TUỔI GIÀ-Tràm Cà Mau

 PHIÊN PHIẾN TUỔI GIÀ ( Tác gỉa nói không sai)

Tràm Cà Mau


Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại. Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết….

Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau.

Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: “Mai mốt tôi già rồi thì…” Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: ” Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?” Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: “Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ.”

Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.

Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ “gần gũi” của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn “bổn phận” mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.

Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.

Nói về cái tai điếc, ông nói: “Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn.”

Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn. Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.

Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực? Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời.

Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.

Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một “lão trượng” đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là “lão trượng” kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh? Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.

Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là “đêm bảy, ngày ba” cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.

Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu “cái đó” mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.

Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.

Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là:

1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ
2) thể dục thường xuyên
3) làm tình đều đều.


Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.

Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ. Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới được trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn? Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru. Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao? Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.

Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối? Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ “bói ra ma, quét nhà ra rác”. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra. Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.

Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay ? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.

Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu “Không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam.”

Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.

Tràm Cà Mau.


H,Phúc ST

Feb 5, 2025

Một ngàn lẻ một đêm thơ văn của Hảo Chi-Tình Yêu Băng Giá và....- Hảo Chi

 Đêm thứ sáu :

Đêm nay Điệp viết trọn vẹn bài thơ “Tình Yêu Băng Giá “ của Hảo Chi


Mùa Đông Sherbrooke 2025 (Canada)

 

Tình Yêu Băng Giá.


Những cỗ xe tuần lộc ,

Mang tình yêu đi xa,

Qua những miền băng giá,

của người và ta.

Canada…


Mùa hạ ở Caribe,

Ta nằm dài trên cát,

Sóng chơi trò phu thê,

Ta nhớ biển đông hề, ta nhớ sóng,

Cơn sóng vỗ về, tình mộng ta nguôi ngoai.


Hảo Chi


Hảo Chi nói đây là bài thơ nhớ về người bạn , không biết là “ cái thằng “ hay “cái con”…Hảo Chi nói “nó” ở Canada, bây giờ “nó” về Mỹ rồi , các bạn ơi “nó “ là ai vậy ????


**********************


Đêm thứ bẩy :

Điệp xin gửi lại hai bài thơ :

 

Thương chiều .


Tôi đứng đợi chiều rơi êm ả,

Chiều ở cả sau lưng với khát vọng nồng nàn,

Chiều ỡm ờ như ngàn tâm sự mỏng ,

Hổn hển than thân hay tủi phận long đong,


Chiều bay lên vàng óng,

nhân loại như một lũ ong vò vẽ bên đời ,

Tôi đứng đó,chiều nay cô độc.


Hảo Chi

Jan 26, 2025

Tản mạn về mâm ngũ quả - Nguyễn Gia Việt

  Người Miền Nam mà nói “chưng mâm ngũ quả” nghe kỳ cục!


Một bạn hỏi rằng, “ngũ quả” là cách của Miền Bắc trăm phần trăm, vì chữ “quả”. Bạn nói nếu trúng Nam Kỳ phải kêu là “chưng 5 thứ trái cây”




1. Người Miền Nam không có "quả", kêu trái hết.

Ca dao Nam Kỳ thì có câu:

“Đưa em cho tới Đông Hồ
Em trả trái mít, em bù trái thơm.”

Nam Kỳ kêu trái,  Bắc Kỳ kêu "quả". Người Miền Bắc kêu bưởi, đào, táo, cam, quýt...đều là "quả"hết. Chữ quả là chữ Hán Việt, 果quả là trái cây.

"Đôi ta ăn một quả cau
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hàng
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh."

Nhưng người Miền Nam lại không kêu quả, mà kêu là "trái". Chữ "trái" là chữ bổn địa Miền Nam.

"Nghe vẻ nghe ve, nghe vè trái cây
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt
Hình tựa gà xước, vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm, thiệt là bắp nấu
Hình thù xâu xấu, trái cà dái dê
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi
Sông sâu chẳng lội là trái mãng cầu."

Người Bắc đọc "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" thì Nam Kỳ dạy "Ăn trái nhớ kẻ trồng cây."

Sơn Nam trong "Cá tính của Miền Nam" viết về “Đào mương lên liếp” của Miệt Vườn. Miệt Vườn là văn minh Miền Nam, là nơi trồng nhiều trái cây.

Cây ổi thì cho ra trái ổi và trái bưởi, trái cam, trái nho, trái lựu, trái bòn bon, trái dâu, trái măng cụt, trái cà chua, trái dưa leo, trái nhãn ...đều là trái hết

Hãy đọc những câu ca dao của người Nam Kỳ:

“Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa.”

Và:

"Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng nhồi biết tấp vào đâu?"

Nam Kỳ là xứ sở của vườn trái cây, của những vựa trái cây, chành trái cây.

Bài vè "Bậu lỡ thời" so sánh con gái quá lứa như trái cây chín rục:

"Bậu lỡ thời như trái chín cây
Trái chín cây người ta làm mứt
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông không ai thèm ngó."

Miền Nam có quả, nhưng là "quả phụ" tức đàn bà góa chồng còn kêu là "cô phụ", "sương phụ". Ngoài ra còn có "nhơn quả" , “công quả” trong nhà Phật .

Trong thể thao môn túc cầu hay còn kêu là môn "đá banh" , các cầu thủ giành nhau "trái banh". Người Miền Nam không kêu quả banh.

2. Chưng trái cây Miền Nam:

Tết thấy nhiều bạn viết “trưng bông”, ”trưng trái cây”.

Nếu bạn là người Nam Kỳ viết “trưng bông” là sai. Người Bắc hay viết “trưng diện” và ‘trưng ngũ quả”.

Nam Kỳ phải là chưng bông và chưng trái cây.

Chưng trái cây xuất xứ từ chữ chưng diện.

Hồ Biểu Chánh viết vầy:

”Còn cô Hai Phục thì cô chưng diện theo cái phẩm “hoa khôi sắc đẹp.”

-Bàn thờ Nam Kỳ mình sao ta?

Nhà Nam Kỳ có cái tủ thờ ở giữa, hai bên mé chái tả hữu là hai bộ ván (bộ ngựa), giữa nhà là cái bàn dài có chừng 10 cái ghế dựa, khách tới nhà thường được gia chủ mời ngủ ở hai bộ ngựa này.

Người Lục Tỉnh chưng trên tủ thờ có bộ tam sự gồm hai chưn đèn, cái đỉnh trầm vuông trái đào, cái lư hương (vùa hương), bên trái là cái bình bông, bên phải là bàn thang chưng trái cây, giữa ngay cái vùa hương là ba chung nước, để cái đèn hột vịt nhỏ xíu hoặc sau này có thêm cây đèn điện màu đỏ để suốt ngày đêm.

Người Miền Nam khác Miền Bắc là chưng trái cây trên cái chò cây cao cao, trên cái chò là dĩa lớn kêu là dĩa bàn thang hay dĩa chưng trái cây.

Người Bắc kêu là “dĩa quả tử”, trên bàn thờ người Bắc chỉ có dĩa trái cây mà không có cái chò.

-Nghệ thuật chưng trái cây Miền Nam:

Nhà giàu, nhà quý tộc:

Trái cây Nam Kỳ mình nhiều không kể hết nên ông bà mình có nghệ thuật chưng trái cây, kêu chính xác là "Chưng nghi ở Nam Kỳ."

Nam Kỳ mình hồi xưa ở những nhà điền chủ, quý tộc không có chưng trái cây trên bàn thờ bình thường, họ xếp trái cây thành hình tứ linh Long, Lân, Qui, Phụng trên cái dĩa bàn thang lớn.

Đó là chưng nghi, kêu là tạo hình mâm quả.

Đám cưới nhà giàu có mâm chưng nghi, họ sẽ lấy những thứ trái cây như bưởi, khóm, dừa, xoài, nhãn, ớt, đậu đũa, đậu que, cà tím, đậu bắp hòa cùng đinh lăng, nha đam, mạch môn, lưỡi cọp ...mà tạo thành hình rồng phụng.

Thí dụ mâm đám cưới tên là mâm "Loan phụng hòa minh" có hình con rồng quấn quít bên con phụng thì ớt hiểm, ớt sừng trâu đỏ chót thành móng rồng, lá thiên tuế kết thành hình đuôi rồng, trái muối đỏ xỏ kẽm xen kẽ với bông vẹt làm đuôi phụng, trái đậu bún làm miệng rồng, đậu bắp làm mặt phụng, vỏ trái cám, trái cóc kèn làm vảy rồng, trái mận làm mắt rồng…

Bàn thờ chưng mâm quả lớn này cũng phải rộng, lớn mới đủ, kết hợp với hai cặp chưn đèn và cái lư hương cũng lớn.

Với trung lưu và bình dân:

Tết nhứt, các gia đình Miền Nam ngày xưa chứng rất nhiều loại trái cây và xếp lên trên dĩa bàn thang. Hồi xưa chưng tuỳ thích, tức là có gì chưng nấy, ba loại cũng được, chục loại cũng xong.

Có nhà chưng hai thứ là bưởi và quýt. Có nhà chưng bưởi và mãng cầu. Có nhà chưng chuối sứ và trái bưởi trên bàn thờ cũng xong.

Thuật ngữ “Mâm ngũ quả” rõ ràng không phải của người Miền Nam xưa.

3.Tại sao Miền Nam lại có “mâm ngũ quả”?

Chữ “quả” chỉ trái không phải của Miền Nam. Người Miền Nam rất tự do không gò bó trong chưng trái cây thì làm sao có “chưng mâm ngũ quả” trong năm thứ?

Trong truyện Hồ Biểu Chánh không thấy dòng nào “mâm ngũ  quả”. Và đương nhiên đọc Trương Vĩnh Ký cũng không thấy nói.

Sao mờ thấy vì dân Lục Tỉnh Nam Kỳ tánh tự do chưng bao nhiêu trái là tuỳ thích, tuỳ hòan cảnh, không bó buộc.

Nhưng đọc Hồ Trường An thấy viết rằng: ”chưng ngũ huê ngũ quả”.

Có thể hiểu, chưng “ngũ quả” có lẽ ảnh hưởng từ người Bắc di cư vào trong Miền Nam. Nhưng từ trước 1975 không ảnh hưởng nhiều lắm trong Miền Nam vì người Miền Nam vẫn có gì chưng nấy.

Người Miền Bắc thích áp đặt này nọ, trong chưng trái cây cũng vậy. Thí dụ trái Phật thủ như bàn tay Đức Phật nhưng chưng thôi, không ăn được.

Con số 5 là tượng trưng cho “ngũ hành ”kim - mộc - thủy - hỏa - thổ" là năm thứ tạo ra thế gian.

Mâm ngũ quả ở Bắc Kỳ phải có chuối và bưởi là không thể thiếu vì nó tượng trưng cho âm-dương. Ngoài  ra còn có thứ không thể thiếu là trái sung hoặc trái mây, rồi thêm trái “quất” (tắc).

Cái chữ “mâm ngũ quả” xuất hiện rầm rộ ở Miền Nam sau 1975 sau khi “giải phóng Miền Nam”, khi mà truyền thông, tuyên truyền là do người Miền Bắc nắm hết.

Trên báo người ta đọc được những bài về “Nghệ thuật trưng ngũ quả Miền Nam”.

Chưng ngũ quả của người Nam Kỳ theo truyền thông thường là : Mãng cầu Xiêm. – Sung. – Dừa. – Đu đủ. – Xoài. ngụ ý “cầu sung túc vừa đủ xài”.

Kinh tế bao cấp, cuộc sống khó khăn, vượt biên, đi kinh tế mới, đánh tư sản đói rách nên làm người ta mơ về bàn thờ ngày Tết kêu là "mâm ngủ quả" kiểu "Cầu Dừa Đủ Xoài Sung" hay "Cầu Vú Dừa Đủ Sung".

Trái sung là trái vô dụng trong các loại trái cây Miền Nam vì không ăn được. Xóm làng Nam Kỳ sung chín rục đỏ đất không ai dòm. Trước 1975 không ai chưng trên bàn thờ trái sung, chưng cho ông bà quở à? Sau 1975 nghèo quá, đói quá, mơ quá nên bắt chước người Bắc lôi trái sung lên bàn thờ luôn.

Thiệt ra chưng hơn 5 loại hoặc ít hơn 5 loại trái cây cũng được.

4. Trái chuối trong văn hoá chưng trái cây của người Nam Kỳ.

Ngày xưa, trước 1975 người Miền Nam chưng trái cây luông tuồng, tự do. Nhà có bụi chuối sứ, chuối cau cứ ra chặt đem chưng lên dĩa bàn thang.

Chuối cúng ở Miền Bắc phải là chuối già lớn trái  và cong vút lên. Còn Nam Kỳ thì không cúng chuối già vì nó giống cái kia. Nam Kỳ chưng chuối sứ và chuối cau thôi.

Ngày thường, đám giỗ, đám cưới Nam Kỳ hồi xưa chưng chuối thoải mái.

Nhưng cũng sau 1975, sau những năm đói khát bao cấp, người Miền Nam bắt đầu “sợ phong long”.

Tết người Nam Kỳ không cúng chuối vì sợ chúi nhủi, chúi lúi.

Dân Miền Nam Tết chưng chuối sẽ bị phản ứng liền, nhứt là những nhà làm ăn, nhà thượng lưu, đó là quy tắc hình thành theo năm tháng.

Ông bà mình từ từ loại chuối ra khỏi cái dĩa bàn thang ngày Tết và đám cưới, chuối chỉ còn trong đám ma, đám giỗ và chưng ngày thường.

Từ trước do ảnh hưởng người Tàu, Tết và đám cưới người Miền Nam cũng kiêng chưng bông trắng. Bông huệ trắng được xem là bông đám ma.

Tết Nam Kỳ kiêng cử từ đó.

Xin khẳng định chữ "kiêng cử", "kiêng kị" không phải là mê tín dị đoan, phạm trù mê tín dị đoan nó qua cái nghĩa sùng kiểu thần thánh và u mê, đôi khi lạc hậu và có hậu quả, kiêng kị thì chẳng hậu quả chi hết.

"Có thờ có thiêng
Có kiêng có lành"

Ngày Tết người Nam Kỳ kiêng kị chưng bông trắng, mặc đồ đen. Nếu Tết mặc áo dài trắng mà màu trắng là màu tang tóc và màu đen cũng tốc tang, người Tàu cũng kiêng hai màu này.

Nam Kỳ chưng bông vạn thọ và bông mai, bông cúc vàng, mặc áo dài xanh, vàng, đỏ, xanh đậm và có hoa văn.

Cái đỏ lòm đáng yêu của người Nam Kỳ ngày Tết là dưa hấu, dưa hấu ngon ngọt và đỏ xẻ ra cát mịn nguyên trái, màu đỏ của quê nhà làm người ta yêu thương xứ sở.

Cây chưng ngày Tết, Bắc Kỳ chưng tắc vì nó là cây quất, quất Tết sướng quíu. Tàu thích chưng tắc vì nó vàng vàng tròn tròn giống vàng, rồi 稷子 tắc tử có nghĩa hạt kê là sung túc. Nhưng người Nam Kỳ lại có "Tắc tử" có nghĩa là "Thì chết" trong câu "Phúc thống phục nhân sâm tắc tử"( Đau bụng uống nhân sâm thì chết).

Nhưng Nam Kỳ cũng không quan niệm hết về cây tắc.

Bắc Kỳ kêu cây tắc là cây quất, Trung Kỳ kêu cây tắc là cây quật, vùng Sài Gòn xung quanh tới Mỹ Tho kêu cây tắc, xuống miệt dưới Miền Tây né kêu là cây hạnh.

Nam Kỳ kiêng chưng cam trên bàn thờ vì nó cam phận, chỉ chưng quýt chưng bưởi. Nhưng nghĩ vầy, cam là trái nuôi người bịnh, Tết nhứt thấy trái cam là nghĩ tới cái cảnh lê lết ở bịnh viện nên kiêng nó chăng?

Tết Nam Kỳ có một món nhà nào cũng có, đi chung thịt kho hột vịt, đó là nồi khổ qua nhồi cá thát lát hầm.

Vì sao nó tên khổ qua thì không ai biết, nhưng làm nồi khổ qua xả xui là tâm lý dân Nam Kỳ ta ngày Tết.

Mà ngẫm cũng rất khoa học, ăn đồ Tết rất nóng táo bón -nổi ghèn muốn chết, ăn khổ qua vô cho mát, dù nó có vị đắng nhưng đâu ai nói nó đắng nghét cuộc đời đâu.

Tết Nam Kỳ không ăn vịt, có người nói vịt lẹp bẹp chậm, cũng có thể, nhưng thịt vịt có tính hàn, khó tiêu, có lẽ kiêng bị Tào Tháo rượt chăng?

H.Phúc ST

Jan 24, 2025

Đến chúc Tết Cô Chi Hương

 Cứ tưởng Tết này không đến thăm Cô được .Hai hôm trước Thanh gọi hơn 10 cuộc điện thoại, có chuông kêu ...nhưng không bắt máy !!!

  Hôm nay sẵn đi công việc ghé nhà cô.Hàng xóm bảo cô bị lãng tai ,gọi khó lắm !!!
   Thanh bấm chuông, lay cửa ầm ầm ...may quá cô ra mở cửa !!!
Sau khi tặng quà, chúc Tết Cô ,Thanh thử bấm điện thoại nhà cô ,cách cô hơn 1m.Chuông kêu 5 lần mà cô bảo không nghe gì !!! Hèn chi !!!
  Năm nay cô đã 90 tuổi rồi. Cô không ra ngoài nhưng vẫn tự nấu ăn và lau nhà lấy nhé...giỏi chưa ???

Kim Thanh đại diện các bạn TV63-70 đến thăm và  mang quà Tết Cô Chi Hương  


  Thôi thế là Thanh đã thăm Tết Cô được rồi.. Chúc các bạn mình năm mới Ất Tỵ luôn vui khỏe và nhiều may mắn nhé...

Jan 21, 2025

GIẾNG HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHO CÔ NẠI

 


IMG_20250121_154907.jpg


Các bạn thân mến,

 Giếng nhóm mình làm để nhớ ơn và hồi hướng công đức cho cô Nại vừa hoàn tất, Tâm xin gửi đến các bạn hình giếng kèm theo đây.
 Vì gửi cho nhóm nên Google họ chỉ giới hạn cho 
mình gửi một bức ảnh. Tâm sẽ gửi riêng cho cô Đức, và cho Hoàng Ánh, là hội trưởng Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương Nam California các hình khác để cô Đức hay Hoàng Ánh chuyển đến gia đình cô Nại.
 Mình cùng góp lời cầu nguyện cho hương linh cô Tâm Toàn Đinh Thi Nại được sớm siêu sinh tịnh độ.
 Học trò cũ của cô,
Trưng Vương 6370

CÔNG DỤNG CỦA MUỐI



1. Đuổi kiến: Rắc muối ở cửa ra vào, ngách cửa sổ và bất cứ chỗ nào kiến chui vào trong nhà. Lý do là vì kiến sợ không dám bò lên muối.

2. Dập tắt lửa bùng cháy vì dầu mỡ: Nếu lửa bùng cháy vì dầu mỡ thì bạn hãy dập tắt ngọn lửa với muối (không dùng nước vì dầu nóng sẽ bay tung tóe).

3. Giữ nến khỏi chảy khi đốt: Nhúng cây nến mới vào trong một dung dich muối đậm đặc trong vài giờ rồi lau cho thật khô, thì cây nến sẽ không chảy mau khi đốt lên.

4. Giữ cho hoa đã hái được tươi: Thêm môt chút muối vào nước cắm hoa thì hoa sẽ được tươi lâu hơn.

5. Cắm hoa giả: Cho muối vào bình cắm hoa giả rồi thêm chút nước lạnh. Khi muối khô sẽ giữ các hoa giả tại chỗ.

6. Sửa tường: Muốn bít các lỗ đinh hoặc vết lở trên tường thạch cao, lấy 2 muỗng muối và 2 muỗng bột bắp trộn với khoảng 5 muỗng nước.

7. Giết cỏ dại: Nếu cỏ dại mọc ở kẽ hở giữa các khối gạch hay khối đá trong vườn, bạn hãy rắc muối vào các kẽ này rồi tưới nước.
8. Nướng thịt ngoài trời: Khi nướng mà lửa bùng cháy vì mỡ nhõ xuống than, rắc một ít muối lên ngọn lửa để kiềm chế ngọn lửa và khói mà không làm than nguội đi.

II. LAU CHÙI

9. Rửa sạch ống thoát bồn rửa chén bát: Hoà muối vào nước nóng rồi đổ vào ống thoát của bồn rửa chén để khử mùi và giữ cho mỡ không tích tụ.

10. Tẩy vết trắng trên bàn gỗ để lại bởi ly nước và đĩa nóng: Trộn muối với dầu thực vật rồi đem chà nhẹ lên vết dơ.

11. Chùi chảo gang dính mỡ: Rắc nhiều muối vào chảo rồi lấy khăn giấy chùi sạch.

12. Rửa tách trà / cà-phê cáu bẩn: Lấy muối trộn với xà-bông rửa chén rồi chà nhẹ lên vết cáu bẩn.

13. Chùi sạch tủ lạnh: Trộn dung dịch baking soda pha muối dùng để lau tủ lạnh sẽ làm mất mùi bên trong mà không phải dùng hóa chất.

14. Chùi đồ đồng hay đồng thau: Trộn muối, bột mì và giấm (tỉ lệ 1:1:1) rồi lấy bột nhão chà lên kim loại. Khoảng một tiếng sau thì lấy khăn mềm chùi sạch và miếng vải khô đánh bong.

15. Chùi rỉ sét: Trộn muối và chanh với đủ nước để làm thành bột nhão. Sau đó chà lên chỗ sét rỉ, để cho khô, rồi lầy khăn mềm và khô chà sạch.

16. Rửa bình pha cà-phê: Cho muối và đá cục vào trong bình, lắc mạnh rồi súc bình cho sạch.

III. GIẶT QUẦN ÁO

17. Tẩy vết rượu vang trên khăn bàn bằng bông hay vải sợi: Lấy khăn hay giấy thấm rượu lau càng nhiều càng tốt, rồi rắc ngay muối lên chỗ rượu vang đổ. Muối sẽ giúp hút hết rượu ra khỏi các sợi vải của khăn bàn. Sau bữa ăn, ngâm khăn bàn vào nước lạnh trong 30 phút trước khi đem giặt (cách này cũng hiệu nghiệm cho quần áo).

18. Phơi quần áo vào mùa đông: Trong lần giặt sau chót, thêm một chút muối để khi phơi trên dây ngoài trời, quần áo không bị đóng giá.

19. Giặt màn cửa in màu hay thảm: Dùng nước muối để giặt thì màu sắc sẽ tươi sáng hơn. Muốn cho các thảm bạc màu trông như mới, bạn hãy chà mạnh với một miếng vải nhúng trong nước muối thật mặn và đã vắt ráo.

20. Gột vết dơ của mồ hôi trên quần áo: Pha bốn muỗng ăn muối vào trong 750ml nuớc nóng, rồi nhúng miếng bọt biển vào trong dung dịch, chà lên vết dơ trên quần áo

21. Gột vết máu trên quần áo: Nhúng quần áo dính máu vào nước muối lạnh, sau đó giặt với nước xà-bông ấm rồi bỏ vào nước đem đun sôi.

22. Làm sạch mặt bàn ủi: Rắc một chút muối lên một miếng giấy rồi là bàn ủi nóng lên.

IV. CHĂM SÓC CÁ NHÂN

23. Bảo trì bàn chải đánh răng: Nhúng bàn chải đánh răng vào nước muối trước khi dùng lần đâu tiên thì bàn chải sẽ bền lâu hơn.

24. Đánh răng: Trộn một phần muối với hai phần baking soda. Dùng bàn chải đáng răng chà hỗn hợp lên răng giống như thường lệ. Bạn cũng có thể súc miệng bằng dung dịch nước muối hoặc dùng nước muối để làm sạch răng giả.

25. Súc miệng: Pha môt phần muối và một phần baking soda vào trong nước sẽ giúp làm mất mùi hôi miệng.

26: Trị các bệnh về miệng: Nếu miệng bị loét, hãy súc miệng với nước muối ấm nhiều lần trong ngày.

27. Trị vết ong chích: Tẩm nước vào vùng da bị ong đốt rồi áp lên trên một lớp muối để giảm sưng tấy.

28. Trị vết muỗi cắn: Vã nước muối lên chỗ muỗi đốt cho đỡ ngứa. Có thể dùng cao dán gồm muối trôn với dầu ô liu cũng hiệu nghiệm.

29. Xoa bóp sau khi tắm: Sau khi tắm, da hãy còn ướt bạn hãy chà thân thể với muối khô. Da sẽ dịu mát và máu sẽ lưu thông tốt hơn

30. Trị viêm họng: Thường xuyên súc miệng với nước pha muối.

V. TRONG BẾP:

31. Thử xem trứng có mới hay không: Bỏ hai muỗng nhỏ muối ăn vào nước rổi thả quả trứng vào: trứng mới sẽ chìm, trứng cũ sẽ nổi.

32. Luộc trứng lòng đỏ còn sống: Bạn hãy luộc trứng trong nước muối vì muối làm tăng nhiệt độ sôi của nước, vì vậy lòng trắng trứng chóng chín hơn.

33. Giữ cho trái cây không bị thâm: Bỏ trái cây vào nước có pha chút muối.

34. Lột vỏ trái hổ đào: Ngâm trái hổ đào vào nước muối trong nhiều giờ sẽ làm cho vỏ dễ lột hơn.

35. Khử mùi hành tỏi trên bàn tay: Rửa với xà bông và nước rồi chà bàn tay lên bất cứ vật gì làm bằng thép không gỉ. Bạn cũng có thể chà hỗn hợp giấm và muối lên các ngón tay

36. Đánh lòng trắng trứng hay kem: Bạn hãy cho thêm chút muối, lòng trắng trứng hay kem sẽ chóng nổi

37. Giữ pho-mát được lâu hơn: Muốn cho pho-m át không bị mốc, bạn hãy bọc pho-mát trong miếng vải có tẩm nước muối trước khi cho vào tủ lạnh.

38. Bảo vệ mặt đáy của lò nướng: Nếu thức ăn trào xuống mặt đáy của lò nướng thì bạn hãy rắc một nhúm muối lên chỗ dơ. Chỗ dơ này sẽ không cháy khét và được nướng thành một lớp vỏ cứng dễ cậy ra khi lò để nguội.

Hy vọng những công dụng trên của muối sẽ giúp các bạn có thêm những cách hay để bảo quản và dọn dẹp cho căn bếp xinh của mình, cũng như chăm sóc sức khỏe tốt hơn.

H.Phúc  (Sưu tầm).