ÁO DÀI
Trịnh Bách
Từ trái: áo năm tà (năm thân)của Thừa sai Công giáo thời Tự Đức, áo dài năm thân may kép của Hoàng thái hậu cuối thế kỷ 19, áo dài ba thân thời đầu 1950
Thủa ấy các vải áo mầu đậm được dùng nhiều nhất. Mùa Thu, Đông dùng các loại gấm đoạn, và Xuân, Hạ dùng sa, vân. Vì mầu nhuộm của các loại vải ngày trước dễ phai, cho nên người xưa không giặt các áo dài may bằng vải đắt tiền, thường dùng làm áo ngoài. Các áo này chỉ được phơi nắng một năm mấy lần, rồi ướp thơm bằng trầm hay hương bài trong tráp gỗ. Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lót. Trong áo kép lại có một áo dài lót. Cái áo lót trong này hay thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thủa đó phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế, cả nam lẫn nữ, hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải mầu tươi, sáng hơn, được nhập về từ Âu Châu. Cho đến lúc này gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20 Cm. Từ đây, và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ 20, thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen để dành cho phụ nữ đã lập gia đình. Tuy nhiên phần lớn phái nữ thuộc mọi lứa tuổi ở Huế vẫn chỉ mặc quần trắng.
Hoàng thái tử Bảo Long trong áo dài năm thân và quần chít ba (dự lễ đăng quang Nữ Hoàng Anh năm 1952)
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Và áo dài từ đây trở thành áo ba tà. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là họa sỹ Cát Tường ở Hà Nội.
Trịnh Bách
Ngày 6 tháng 7 vừa qua, các cựu nữ sinh Trưng Vương ở Nam Cali
đã có một buổi trình diển áo dài tân thời Le Mur nằm trong chương trình kỷ niệm
80 năm Tự Lực Văn Đoàn và báo Phong Hóa Ngày Nay. Trong tinh thần
đó DSTV6370 xin giới thiệu đến các bạn và độc giả một bài biên khảo của tác giả
Trịnh Bách về Lịch sử biến đổi của chiếc Áo Dài Việt Nam.
Kèm theo là một video trình bày về thời kỳ chiếc áo dài được cải cách tân thời do nhà họa sĩ Cát Tường Le Mur thực hiện trong khoảng năm 1930 - 1940. Video được diển giảng bởi Ông Nguyễn Trọng Hiền ( con trai thứ của họa sĩ Le Mur) về sự nghiệp của thân phụ ông trong lãnh vực thời trang và cải cách y phục phụ nữ một cách thật dí dỏm . DS TV xin trân trọng giới thiệu.
DSTV xin cám ơn Minh Tâm đã chuyển bài biên khảo có giá trị lịch sử của tác giả Trịnh Bách .
Người Việt xưa nay thường có tính kín đáo. Cristoforo Borri, một giáo sỹ người Ý sống ở vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của xứ Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1623, đã nhận xét rằng tuy Việt Nam có thời tiết rất nóng, nhưng người Việt ăn mặc kín đáo nhất so với các dân tộc khác trong vùng. Các cụ ngày xưa chắc đã phải mất nhiều thì giờ nghiên cứu, để tìm cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Thí dụ như khi cảm thấy cổ của người Việt thường không được cao lắm, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ, trong khi tóc được vấn cao lên lộ gáy để dù cổ phải che, tóc phải dấu, cổ của một phụ nữ Việt Nam trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao, sang hơn. Kín đáo đấy, nhưng áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung Quốc gọi loại áo này là "bì bào", có nghĩa là áo mặc sát vào da. Trong khi đó người Việt xưa gọi ghép áo dài vào loại Tập phục, nghĩa là loại áo mặc có nhiều lớp, mà trong đó, lớp áo dài được người xưa gọi là áo lót. Vì thật ra nó chỉ là lớp lót trong cùng, với lớp xiêm độn ở giữa, và áo bào phủ ra ngoài cùng.
Các mẫu cổ áo từ Tam tài Đồ hội
Áo tứ thân thuộc dạng trực lĩnh, có gốc là áo Trường tụ Tỷ giáp được phổ biến bên Trung Quốc từ thời Đường (618 - 907). Trong thôn quê miền Bắc nước ta áo này còn được mặc cho đến gần đây dưới dạng áo dài tứ thân. Dạng lễ phục của áo trực lĩnh là áo mệnh phụ, áo tràng, hay áo nhật bình. Trong khi đó áo dài thuộc giòng bàn lĩnh năm thân, nay là áo dài ba thân. Lễ phục của bàn lĩnh là các áo bào, áo tấc. Vì nguyên tắc che cổ dấu tóc của người Việt, nên các áo này được gắn thêm cái cổ xây ở nước ta.
Trong quyển sách Relation de la Nouvelle Mission des Peres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản tại Lille năm 1631, Giáo sỹ Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: Đàn ông mặc áo frac (áo dài) mầu đen như kiểu áo của các giáo sỹ going Benoit… “Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân một cách trang trọng. Rồi những áo khác ở ngoài ngắn dần." Chắc vị giáo sỹ này muốn nói đến cách mặc áo mớ ba, mớ bẩy của phụ nữ Việt hiện còn thấy ở các làng Quan Họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang, hay lác đác ở Huế. “Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những giải dài. Khi đi lại các giải này quyện vào nhau trông đẹp mắt. Mỗi khi có làn gió thổi thì các giải đó lại bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục… Đàn ông cũng để tóc dài và vấn khăn như đàn bà."
Có lẽ Giáo sỹ Borri và nhiều người khácđã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt cổ xưa mặc mỗi khi ra ngoài. Vẫn chưa có chứng tích hay tài liệu nào về việc thường dân mặc đến bẩy lớp áo dài xưa nay, ngoại trừ những trường hợp đại liệm trong tang lễ. Có lẽ mớ ba mớ bẩy chỉ là cách nói nôm na của ba và bẩy vẫn thường thấy trong ca dao Việt Nam. Thí dụ như câu "yêu nhau bẩy bỏ làm ba, ghét nhau ba bẩy bổ ra làm mười", hay trong cụm từ "tam sao thất bản"... Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các giải dài bên dưới thắt lưng mà Giáo sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hay xiêm nghê thường, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp giải lụa may chồng lên nhau. Lớp giải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngấn dần. Các giải này ngày nay được đơn giản hóa bằng cách may thưa, nhỏ hơn, và dính liền ba bốn lớp với nhau như thỉnh thoảng vẫn còn thấy trong trang phục rước đình ở thôn quê miền Bắc, Trung Việt, và trong phục trang múa cung đình ở Huế.
Bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, là minh chứng rõ nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sỹ Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước đây. Cái áo dài cũng như cách vấn khăn ấy chẳng khác gì bây giờ. Và bức tượng này cho thấy áo dài phải xuất hiện trễ nhất là từ thế kỷ 17.
Kèm theo là một video trình bày về thời kỳ chiếc áo dài được cải cách tân thời do nhà họa sĩ Cát Tường Le Mur thực hiện trong khoảng năm 1930 - 1940. Video được diển giảng bởi Ông Nguyễn Trọng Hiền ( con trai thứ của họa sĩ Le Mur) về sự nghiệp của thân phụ ông trong lãnh vực thời trang và cải cách y phục phụ nữ một cách thật dí dỏm . DS TV xin trân trọng giới thiệu.
DSTV xin cám ơn Minh Tâm đã chuyển bài biên khảo có giá trị lịch sử của tác giả Trịnh Bách .
ÁO DÀI
Trịnh Bách
Người Việt xưa nay thường có tính kín đáo. Cristoforo Borri, một giáo sỹ người Ý sống ở vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của xứ Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1623, đã nhận xét rằng tuy Việt Nam có thời tiết rất nóng, nhưng người Việt ăn mặc kín đáo nhất so với các dân tộc khác trong vùng. Các cụ ngày xưa chắc đã phải mất nhiều thì giờ nghiên cứu, để tìm cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Thí dụ như khi cảm thấy cổ của người Việt thường không được cao lắm, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ, trong khi tóc được vấn cao lên lộ gáy để dù cổ phải che, tóc phải dấu, cổ của một phụ nữ Việt Nam trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao, sang hơn. Kín đáo đấy, nhưng áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung Quốc gọi loại áo này là "bì bào", có nghĩa là áo mặc sát vào da. Trong khi đó người Việt xưa gọi ghép áo dài vào loại Tập phục, nghĩa là loại áo mặc có nhiều lớp, mà trong đó, lớp áo dài được người xưa gọi là áo lót. Vì thật ra nó chỉ là lớp lót trong cùng, với lớp xiêm độn ở giữa, và áo bào phủ ra ngoài cùng.
Cho nên khi đọc các sách cổ như Tây Hành Nhật Ký của Phạm Phú Thứ, thấy các cụ sứ thần nước ta nói mặc áo lót ra tiếp khách, người không hiểu lại thấy xấu hổ rằng người mình ngày xưa khiếm nhã.
Chưa ai có thể khẳng định được áo dài Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và như thế nào. Thản hoặc mới thấy một vài chi tiết liên quan đến áo dài, hoặc yếu tố Việt trong trang phục, ở các sách sử. Thí dụ như một đạo dụ năm Hưng Long thứ tám (1301) thời Trần Anh Tông cấm dân chúng không được mặc áo rộng tay. Hay năm 1374 Vua Trần Duệ Tông cấm dân dùng y phục theo Bắc Quốc. Tuy nhiên chuyện được biết đến nhiều hơn cả là việc Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, khi xưng Vương năm 1744, đã bắt quan dân Thuận Quảng phải mặc lễ phục lấy mẫu từ sách Tam Tài Đồ Hội của nhà Minh, Trung Quốc. Rồi năm 1776, sau khi quân đội của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh đô Phú Xuân của xứ Đàng Trong, quan Hiệp Trấn Thủ Lê Quý Đôn của nhà Trịnh ra lệnh cho dân ở đây phải cải lại lề lối ăn mặc theo tục lệ cũ, nghĩa là giống như cách trang phục của Đàng Ngoài lúc bấy giờ, cũng như ở Đàng Trong trước biến đổi thời 1744. Theo lệnh này, về thường phục thì "Từ nay trở đi, đàn ông và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay với cổ đứng…” Ngắn tay tức là tay áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài gấp đôi chiều dài tay như trong áo lễ.
Mặc dù phải chấp nhận việc triều cống nhà Thanh, nhưng người Việt lúc nào cũng coi người Mãn Châu là giống di địch, không phải chính thống Hán tộc. Vì thế triều phục và lễ phục của các triều Lê, Nguyễn Việt Nam vẫn dựa theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn lấy từ sách Tam tài Đồ hội của Minh triều, Trung Quốc.
Nhưng áo dài không phải là lễ phục. Áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách, hoặc đi ra đường. Những khi lễ lạc, người xưa phải khoác ra ngoài áo dài một cái áo rộng tay, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc. Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổi tiếng, viết và minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầu Dân Quốc (477 trước Công Nguyên đến thập kỷ 1920 sau Công Nguyên), không thấy đả động gì đến bì bào. Loại bì bào độc nhất ở Trung Quốc, thường gọi là trường xàm, mà người mình hay gọi theo âm Quảng Đông là sường xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh và Thượng Hải trong thập niên 1920. Sường xám trở thành nổi tiếng nhờ bà Tống Mỹ Linh, vợ Thống Chế Tưởng Giới Thạch. Cũng nên để ý rằng phụ nữ của một số bộ tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nởam cũng mặc loại áo giống áo dài dưới đồng bằng. Trong khi người cùng những bộ tộc ấy các nước chung quanh lại không thấy mặc loại áo này.
Có một sự hiểu lầm khá phổ biến gần đây, là áo dài cài bên bây giờ có gốc từ áo tứ thân xẻ giữa. Đây là những sự hiểu lầm rất đáng tiếc. Thật ra hai giòng áo dài tứ thân và năm thân được truyền xuống từ ngàn xưa, vẫn luôn giữ nguyên vẹn hình dạng và tính chất của chúng.
Y phục Trung Hoa, mà người Việt xưa vẫn xem là mẫu mực, được phân loại cụ thể từ đời Minh (1368 – 1644), với ba dạng chính: Dạng thứ nhất là Bàn Lĩnh có cổ tròn và vạt áo cài sang bên sườn. Dạng thứ hai là Trực Lĩnh với hai vạt gặp nhau ở giữa cổ và vạt áo xẻ giữa. Dạng thứ ba là đối lĩnh (giao lĩnh) với hai vạt chéo nhau, cài bên.Mặc dù phải chấp nhận việc triều cống nhà Thanh, nhưng người Việt lúc nào cũng coi người Mãn Châu là giống di địch, không phải chính thống Hán tộc. Vì thế triều phục và lễ phục của các triều Lê, Nguyễn Việt Nam vẫn dựa theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn lấy từ sách Tam tài Đồ hội của Minh triều, Trung Quốc.
Nhưng áo dài không phải là lễ phục. Áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách, hoặc đi ra đường. Những khi lễ lạc, người xưa phải khoác ra ngoài áo dài một cái áo rộng tay, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc. Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổi tiếng, viết và minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầu Dân Quốc (477 trước Công Nguyên đến thập kỷ 1920 sau Công Nguyên), không thấy đả động gì đến bì bào. Loại bì bào độc nhất ở Trung Quốc, thường gọi là trường xàm, mà người mình hay gọi theo âm Quảng Đông là sường xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh và Thượng Hải trong thập niên 1920. Sường xám trở thành nổi tiếng nhờ bà Tống Mỹ Linh, vợ Thống Chế Tưởng Giới Thạch. Cũng nên để ý rằng phụ nữ của một số bộ tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nởam cũng mặc loại áo giống áo dài dưới đồng bằng. Trong khi người cùng những bộ tộc ấy các nước chung quanh lại không thấy mặc loại áo này.
Có một sự hiểu lầm khá phổ biến gần đây, là áo dài cài bên bây giờ có gốc từ áo tứ thân xẻ giữa. Đây là những sự hiểu lầm rất đáng tiếc. Thật ra hai giòng áo dài tứ thân và năm thân được truyền xuống từ ngàn xưa, vẫn luôn giữ nguyên vẹn hình dạng và tính chất của chúng.
Các mẫu cổ áo từ Tam tài Đồ hội
Trong quyển sách Relation de la Nouvelle Mission des Peres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản tại Lille năm 1631, Giáo sỹ Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: Đàn ông mặc áo frac (áo dài) mầu đen như kiểu áo của các giáo sỹ going Benoit… “Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân một cách trang trọng. Rồi những áo khác ở ngoài ngắn dần." Chắc vị giáo sỹ này muốn nói đến cách mặc áo mớ ba, mớ bẩy của phụ nữ Việt hiện còn thấy ở các làng Quan Họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang, hay lác đác ở Huế. “Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những giải dài. Khi đi lại các giải này quyện vào nhau trông đẹp mắt. Mỗi khi có làn gió thổi thì các giải đó lại bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục… Đàn ông cũng để tóc dài và vấn khăn như đàn bà."
Có lẽ Giáo sỹ Borri và nhiều người khácđã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt cổ xưa mặc mỗi khi ra ngoài. Vẫn chưa có chứng tích hay tài liệu nào về việc thường dân mặc đến bẩy lớp áo dài xưa nay, ngoại trừ những trường hợp đại liệm trong tang lễ. Có lẽ mớ ba mớ bẩy chỉ là cách nói nôm na của ba và bẩy vẫn thường thấy trong ca dao Việt Nam. Thí dụ như câu "yêu nhau bẩy bỏ làm ba, ghét nhau ba bẩy bổ ra làm mười", hay trong cụm từ "tam sao thất bản"... Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các giải dài bên dưới thắt lưng mà Giáo sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hay xiêm nghê thường, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp giải lụa may chồng lên nhau. Lớp giải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngấn dần. Các giải này ngày nay được đơn giản hóa bằng cách may thưa, nhỏ hơn, và dính liền ba bốn lớp với nhau như thỉnh thoảng vẫn còn thấy trong trang phục rước đình ở thôn quê miền Bắc, Trung Việt, và trong phục trang múa cung đình ở Huế.
Năm 1819, khi thuyền trưởng Mỹ John White đến thăm Sài Gòn, cách ăn mặc ở đây vẫn giống như giáo sỹ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó. Ông White có nhắc đến một thiếu nữ 16 tuổi mặc quần lụa đen và cái áo may sat nguoi đến mắt cá chân. Ông cũng cho biết rằng đàn ông, đàn bà Sài Gòn khi ấy ăn mặc giống nhau, với nhiều lớp áo dài khác mầu. Chiếc áo trong cùng dài đến mắt cá chân (chắc là cái quần), rồi các áo ngoài ngắn dần…Tuy nhiên, giống như bây giờ, lối ăn mặc đỏm đáng kể trên chỉ dành cho tầng lớp phong lưu, thời thượng. Còn phục trang của đại đa số dân chúng thì nghiêm cẩn hơn. Giáo sỹ Borri cho biết phần lớn đàn ông Việt hồi đầu thế kỷ 17, nhất là giới sỹ tử, đều mặc một cái áo dài lụa hay lương mầu đen phủ ra ngoài các áo khác.
Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn, ngày xưa chỉ dệ t được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ởgấu. Cổ áo phụ nữ chỉ cao khoảng 2 đến 2,5 cm. Riêng ở miền Bắc từ thập kỷ 1910-1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3 cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn, và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ, gọi là chuỗi hạt gáo. Nhưng khi đi lễ chùa hay gặp các bậc trưởng thượng, cổ áo lại được cài kín lại bằng khuy giữa cổ.
Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn, ngày xưa chỉ dệ t được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ởgấu. Cổ áo phụ nữ chỉ cao khoảng 2 đến 2,5 cm. Riêng ở miền Bắc từ thập kỷ 1910-1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3 cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn, và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ, gọi là chuỗi hạt gáo. Nhưng khi đi lễ chùa hay gặp các bậc trưởng thượng, cổ áo lại được cài kín lại bằng khuy giữa cổ.
Từ trái: áo năm tà (năm thân)của Thừa sai Công giáo thời Tự Đức, áo dài năm thân may kép của Hoàng thái hậu cuối thế kỷ 19, áo dài ba thân thời đầu 1950
Thủa ấy các vải áo mầu đậm được dùng nhiều nhất. Mùa Thu, Đông dùng các loại gấm đoạn, và Xuân, Hạ dùng sa, vân. Vì mầu nhuộm của các loại vải ngày trước dễ phai, cho nên người xưa không giặt các áo dài may bằng vải đắt tiền, thường dùng làm áo ngoài. Các áo này chỉ được phơi nắng một năm mấy lần, rồi ướp thơm bằng trầm hay hương bài trong tráp gỗ. Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lót. Trong áo kép lại có một áo dài lót. Cái áo lót trong này hay thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thủa đó phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế, cả nam lẫn nữ, hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải mầu tươi, sáng hơn, được nhập về từ Âu Châu. Cho đến lúc này gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20 Cm. Từ đây, và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ 20, thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen để dành cho phụ nữ đã lập gia đình. Tuy nhiên phần lớn phái nữ thuộc mọi lứa tuổi ở Huế vẫn chỉ mặc quần trắng.
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Và áo dài từ đây trở thành áo ba tà. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là họa sỹ Cát Tường ở Hà Nội.
Năm 1939 nhà tạo mẫu/ họa sỹ này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa, cả về mẫu dáng lẫn tên gọi, Le Mur, do ông tự dịch tên của mình ra tiếng Pháp. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim với mũi nhọn đằng trước ngực hay sau lưng, và một cái nơ đính vào chỗ khoét nhọn đó. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Có thế thôi mà áo dài Le Mur bị xem là táo bạo, và chỉ có giới nghệ sỹ hay thời thượng mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo này đã bị thất sủng.
Một vài mẫu áo dài Lemur (Cát Tường)
Đến thập kỷ 1950 sườn áo dài bắt đầu được may có eo, không còn cái áo dài lót bên trong. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này để chỉ còn một miếng vả ngắn gọi là vạt hò. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 1960. Vì nịt ngực ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài bắt đầu được may chít eo, nhiều khi rất chật, để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên hở cạp quần. Gấu áo lúc này cắt gần thẳng ngang, và may dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền, được gọi là áo bà Nhu. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn.
Rồi đến gần cuối thập kỷ 1960, để theo đúng thời trang váy ngắn quần loe của phong trào Hippy, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo bây giờ may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. Áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn hơi giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn trên dưới 3 cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt là cũng trong khoảng gần cuối thập niên 1960 này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối nối xéo gọi là raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo dài từ đây được nối với thân từ chéo vai. Quần khi ấy may rất dài với gấu rộng đến 60cm, và nhiều khi được lót hai ba lớp. Cho đến lúc này phụ nữ Việt Nam khi ngồi xuống vẫn còn ý nhị vén vạt áo sau đặt lên đùi trước cho kín đáo, và để vạt áo khỏi nhăn.
Từ thập kỷ 1970 đến 1990 áo dài không thay đổi nhiều lắm. Thỉnh thoảng cách mặc có đổi mới, thí dụ như quần với áo đồng mầu, nhưng không tạo ra được phong trào sâu đậm. Các nhà tạo mẫu áo dài bây giờ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi để đưa ra mẫu mới. Nhưng các mẫu mã ngày nay phần nhiều chỉ thay đổi chung quanh chất vải hay hoa văn. Còn về kiểu dáng thì hoặc là lại quay về giống như áo dài của một trong những thập kỷ trước, nghĩa là không khác gì với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ thứ 17, hoặc không còn là áo dài nữa. Áo dài trông đơn giản thế, nhưng muốn biến đổi nó thêm về hình thức sẽ rất khó. Vì nó đã được hoàn thiện từ lâu lắm rồi.
TRỊNH BÁCH.
Đến thập kỷ 1950 sườn áo dài bắt đầu được may có eo, không còn cái áo dài lót bên trong. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này để chỉ còn một miếng vả ngắn gọi là vạt hò. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 1960. Vì nịt ngực ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài bắt đầu được may chít eo, nhiều khi rất chật, để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên hở cạp quần. Gấu áo lúc này cắt gần thẳng ngang, và may dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền, được gọi là áo bà Nhu. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn.
Rồi đến gần cuối thập kỷ 1960, để theo đúng thời trang váy ngắn quần loe của phong trào Hippy, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo bây giờ may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. Áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn hơi giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn trên dưới 3 cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt là cũng trong khoảng gần cuối thập niên 1960 này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối nối xéo gọi là raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo dài từ đây được nối với thân từ chéo vai. Quần khi ấy may rất dài với gấu rộng đến 60cm, và nhiều khi được lót hai ba lớp. Cho đến lúc này phụ nữ Việt Nam khi ngồi xuống vẫn còn ý nhị vén vạt áo sau đặt lên đùi trước cho kín đáo, và để vạt áo khỏi nhăn.
Từ thập kỷ 1970 đến 1990 áo dài không thay đổi nhiều lắm. Thỉnh thoảng cách mặc có đổi mới, thí dụ như quần với áo đồng mầu, nhưng không tạo ra được phong trào sâu đậm. Các nhà tạo mẫu áo dài bây giờ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi để đưa ra mẫu mới. Nhưng các mẫu mã ngày nay phần nhiều chỉ thay đổi chung quanh chất vải hay hoa văn. Còn về kiểu dáng thì hoặc là lại quay về giống như áo dài của một trong những thập kỷ trước, nghĩa là không khác gì với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ thứ 17, hoặc không còn là áo dài nữa. Áo dài trông đơn giản thế, nhưng muốn biến đổi nó thêm về hình thức sẽ rất khó. Vì nó đã được hoàn thiện từ lâu lắm rồi.
TRỊNH BÁCH.
Cám ơn người đẹp TV đã cho tôi nhớ lại một thời đã xa.
ReplyDeleteThời khóa biểu của em anh biết hết
Nhưng anh chỉ dám đứng lặng yên
Nhìn theo tà áo bay trong nắng
Gửi vạt áo ai một chút tình .....
Người ái mộ
Web cuả các em rất khá, bài viết chọn lọc, trình bầy rất mỹ thuật.
ReplyDeleteChúc tất cả các em mọi điều tốt đẹp.
Thân aí,
Phạm Thảo Nguyên,
Tức Phạm thị Thảo, TV 53 60.
Cám ơn chị Thảo về lời phê bình DSTV6370.
DeleteBan biên tập sẽ luôn cố gắng cải tiến để đáp ứng nhu cầu của các độc giả không chỉ cho đại gia đình TV mà cho cả các độc giả từ khắp nơi trên thế giới,những lời khen tặng luôn là niềm vui và giúp ban biên tập năng sáng tác hơn.
Thân mến
Thay mặt ban biên tập DSTV
Kim Đoan