Jul 30, 2011

Mối tình son


 
Mối Tình Son

Hoa Kỳ Dung



                  Không trống không kèn 
                  Mối tình non chết yểu 
                  Không người đưa tiễn khóc thương
                  Chôn vội bên lề đường một nấm 
                  Đã lâu rồi không cả khói hương

            Điệu kèn nức nở
         Tấm lòng son chết yểu 
          Những mặt người xa lạ đứng xem 
          Kìa hạ huyệt một linh hồn vỡ vụn 
          Rưng rức đôi giòng lệ đã khô 

                     Lời kinh đêm ra riết
                   Giòng thơ xanh chết yểu
                   Phím đàn đơn độc thảng thốt kêu 
                   Cuối phần đời một giòng thơ diễm lệ 
                  Tan tác muôn trùng vạn giấc mơ

           Hương trầm nghi ngút
         Người yêu tôi chết yểu 
         Bên kia bờ hạnh phúc em mang
         Giòng thơ xanh ân cần mời gọi
           Chút lòng son mở hội đón đưa 
           Và ở đó tình năm xưa muôn đời vĩnh cửu.
     
                                                        Hoa Kỳ Dung .



Jul 29, 2011

Bàn Về Miếng Ngon.



BÀN VỀ MIẾNG NGON
Lưu Hảo Chi

Tôi cho miếng ngon nhất mà tôi nhớ đời đó là lần tôi bị phạt bỏ đói hơn nửa ngày. mà tội gì thì tôi quên tiệt. Chỉ biết lúc đó tôi khoảng bảy tám tuổi. Tôi bị nhốt ở trong phòng và cửa khóa. Tôi loay hoay nhìn qua ống khóa,và nhìn thấy sinh hoạt ở trong bếp, mẹ tôi đang nấu ăn và cầm một cái thìa to...Tôi cảm thấy đói cồn cào và mong sao cho mau được tha tội và có lẽ sẽ cho tôi ăn! Lần đó được thả tù, tôi được cho ăn đỡ mợt chén cơm nguội với thịt chà bông và dưa cần. Chắc những món ngon kia chưa nấu xong nên mẹ tôi đã cho tôi ăn đỡ như vậy,và tới nay hơn năm chục năm qua, tôi vẫn còn nhớ mùi dưa cần thơm và vị thịt chà bông ngọt, cơm nguội mà sao ngon thế ? Từ đó dưa cần phải đi với thịt chà bông và ăn lúc đói lòng. Tôi nhgiệm ra rằng hình phạt kinh khủng nhất đối với các loài động vật có xương sống, hít thở khí trời ấy là bị bỏ đói, sau đó là bị giam cầm. Danh ngôn nói rằng " con đường gần nhất dẫn đến trái tim là con đường di qua bao tử " ôi chí lý lắm thay.
Có lần tôi ngồi đọc sách trên balcon cuả một căn phòng rộng. Bao lơn nhìn ra mặt hồ, tuy không rộng ngút ngàn, nhưng sóng nước làm cho cảnh nên thơ . Cảnh đẹp mà phải nghe tiếng đàn bà quát tháo, la mắng con cái thì nó hết cả vẻ đẹp tĩnh mịch của buổi sáng. Tôi nghe có tiếng thằng bé van lạy mẹ xin lỗi và khóc nức nở. Tiếng bà mẹ thét lên :
-Từ giờ thì chừa nhé. Đánh cho ba roi mà nhớ. Nằm xuống đây . Rồi tiếng roi đét đít nghe rùng rợn. Tội nghiệp thằng bé, không biết tội gì vậy nhỉ !
Sau này tôi biết cậu bị đòn vì đòi ăn phở mà bỏ mứa! mẹ cậu tiếc của nên cho cậu một bài học. Tôi chắc cậu sẽ nhớ đời và có thể là sẽ thù món phở nữa không chừng ! Nhưng tôi không khỏi trách thầm bà mẹ, tại sao không tìm hiểu lý do trẻ con nó bỏ mứa thứ ăn ? Nó sắp bị đau, cơ thể uể oải, ăn kém ngon ? Hay là tô phở dở quá nó nuốt không trôi ? Hoặc là cái tô xel lưả làm sao nó nuốt hết ? Mà đánh trẻ con vì nó ăn không hết, hoặc bỏ đói để thay một hình phạt, tôi cho cả hai đều hơi quá đáng. Còn ở bên xứ Cờ Huê, người ta làm thống kê cứ một người dân Mỹ trung bình vứt bỏ 600 U S D / một năm về cái khoản vứt bỏ thức ăn. Dư thừa quá đáng, mà ai đó còn nói vơí tôi : " không dục đồ ăn không phải là Mỹ " Cái tôị dư thừa, và con mắt thì lớn hơn cái bụng. Rồi lại đặc biệt chiều đãi ông thần khẩu , chưa ăn hết thứ nọ đã bầy ra thứ kia mới nên nông nỗi.
Món ăn ngon, phải có người ngồi ăn cùng cảm thấy ngon ,chỗ ngồi ăn cũng quan trọng. Ngồi lề đường ăn phở gánh, những chiếc ghế nhựa mất cảm tình, giấy lau tay lau miệng thả bay như bướm ! thật ghê rợn ! những quán lụp xụp bán những món quốc hồn quốc túy như bún đậu, bánh cuốn, miến lươn, cháo lòng... ở Việt Nam nó mọc lên như nấm, tôi đặt là " Quà Ngon Xóm Nghèo " Tôi ở Hà Nội có lần thử đi ăn bánh tôm Cổ Ngư và phải kêu giời lên vì nào phải bánh tôm ? mà là bánh tép. Nước mắm chấm thì như nước trà , nhạt nhẽo, món ăn dở mà bị ăn thì gọi là cứ phí cả mồm. hay là như bị ai đấm vào mõm !..
Tôi không thích ăn sáng bằng xôi, nhưng mà nhìn hai thúng xôi của bà hàng sao mà nó hấp dẫn chi lạ : Xôi bắp (lúa ) xôi đậu xanh , đậu phọng (lạc ) xôi gấc, xôi vò, bà xới gói nhanh thoăn thoắt . Ngồi chờ có cậu thanh niên đợi xôi gói mang về, Thanh niên gì mà nói nhiều quá. Mà họ nói hay thật, ngồi bên cạnh bà hàng xôi là mợ bán bánh cuốn, người ta đã mua xôi rồi còn kỳ kèo:
_ăn bánh cuốn đi, hôm nay ngon lắm
_Ăn xôi đã hết tiền rồi , lấy đâu ra mà ăn bánh ? Cậu thủng thẳng nói,
_miệng ăn núi lở, Ngồi không mà ăn quà thì đào đâu ra tiền ?
Tôi ước gì mình đừng phải ăn ! Mà ăn nó lại là mục đích chính hay là gần như bắt buộc ở cái cõi đời này. Ông Võ Phiến bảo :" Phục vụ ông thần khẩu là một phục vụ nhục nhã nhất " Sao lại cay cú thế nhỉ ? Phàm tục thật đấy , nhưng là người (hay động vật hoặc cả thưc vật ) gì thì cũng phải ăn mà thôi. Trong cái ăn, không phải chỉ có miệng lưỡi hoạt động mà còn cơ hàm, tuyến nước miếng, hạch bài tiết. Ăn nóng đổ mồ hôi, ăn cay trào nước mắt, ăn mặn tê cả lưỡi. Rồi ăn bằng mắt, Ăn cả bằng thính giác, và khưú giác.
Trời khuya, hơi lạnh lạnh mà ngửi thấy mùi phở, ngát những quế gừng.. đêm sẽ ấm áp mặn mà hơn nếu được ăn phở.
Rồi trưa hè bức sốt, một bát canh bún với màu rau cần xanh ngọt, mùi riêu cua nồng nàn ,ăn vã cả mồ hôi.. Sao mà đời đáng sống thế ? Quả thật nếu sống mà không được ăn , thì sống làm gì ?
Các cụ nhà ta " Chế " ra cái câu " quân tử Tàu " để phê bình cách xử thế của người Trung Hoa. Ở bên Tàu ( lại Tàu ) có chuyện Bát cơm Xiếu Mẫu của Hàn Tín, là chuyện đáng khâm phục. Một bát cơm lúc cơ hàn mà Tín nhớ mãi và đền ơn. Còn chuyện Giơí Tử Thôi, một quần thần trung tín phò tá công tử Trùng Nhỉ đời nhà Tấn thời Chiến Quốc. Giơí Tử Thôi hy sinh để cứu lấy Quân Vương, trong lúc bôn đào có khi phải đi ăn xin _ cả chúa lẫn tôi đều đói và mệt, bọn quần thần phải đi kiếm rau hái cỏ về dùng tạm qua ngày, nhưng vì món ăn quá ư kham khổ nên công tử Trùng Nhỉ không sao nuốt được đành nhịn đói. Giơi Tử Thôi phải cắt thịt đùi mình làm BBQ cho công tử Trùng Nhỉ xơi. Cái : "Miếng Ngon Nhớ Lâu" đó, sau này công tử là Vua Tấn Văn Công nào có nhớ tại sao mình đườc ăn ngon ? Cái miệng vô ơn đó còn biết gì đến thịt đùi BBQ của Giơí Tử Thôi ? Và bậc trung nghiã "Quân Tử Tàu " Thôi bá bá đó làm một màn giận hờn vu vơ. Trốn tiệt vào rừng để khỏi phải nhìn thấy Vua bội bạc.Đời sao lắm chuyện nhiêu khê, vậy tóm lại là phải biết : Tình đời nó như băng giá mùa Xuân, mỏng và chóng tan... Biết được như vậy thì mới sống ở đời được. Giá mùa Xuân và thói đời kiêu bạc.
Mùa xuân năm đó, tôi đang đi lơn tơn thì gặp em Bê đi ngược chiều. Cả hai cái mồm cùng hét :
-Mày phải con Hoàng Thị Bê ?
-Mày con Lưu Hảo Chi phải không ?
-Mày đi đâu đấy ?
-Ơ... Còn mày ..?
-Tao đi nhà thờ.
Chúa ơi hôm nay là Chúa Nhật, ngày của Chúa mà con lại đi lơn tơn...
Ủa, vậy mày có đạo hả ? Tao cũng đạo mà sao tao không biết mày ?
Rồi em Bê đã kéo "con chiên lạc bầy " là tôi về đi nhà thờ.
Hồi đó tôi và Bê học cùng lớp, tôi chỉ biết tên nó thôi chứ còn tông tích thì không rành. Nó luôn luôn đứng trên tôi trong sổ điểm danh, Hoàng thị Bê. Nguyễn Minh Châu, Lưu Hảo Chi.
Tôi cũng có nhớ nó với giai thoại " Ngày ba bưã vỗ bụng nhau bình bịch " Nó thuộc thơ kiểu này tội nghiệp nhà thơ Nguyễn Công Trứ và tội nghiệp cả bụng.
Sau đó tôi đến nhà Bê thường xuyên, vì lúc đó nó đang có nghề "may thuê vá mướn "
Trời sinh ra em Bê và cho em cái lai sần ( license ) để mà thêu thùa may vá đẹp muốn chết. Tôi vì cảm phục cái tài làm bánh làm trái nấu ăn thêu thùa may vá của em Bê nên ngày nào cũng sang chầu em mấy lần. Em thêu tranh lụa "Đám cưới nhà quê " Giời ơi nó đẹp quá. Mà cái đứa cai thầu ác nghiệt , bán tranh được 100 U S D thì chỉ trả em có 10 U S D . Bóc lột tàn nhẫn vô nhân đạo. Em cứ thế mà ngồi thêu sau rèm... "thâm đít ít tiền " Tội nghiệp em quá xá mà tôi cũng chẳng biết an ủi em ra sao, vì lương tôi lúc đó đi dạy học X H C N, cũng chỉ có 40$ VN một tháng ! (1980)
Tôi đi lơn tơn mãi cũng chán- cuối cùng lại chọn nhà em Bê là nơi "tạm trú ". Sau những buổi đạp xe đi bơi mệt nhoài. Đến nhà Bê thì tội nghiệp em quá vì tôi không là công tử Trùng Nhỉ ,nên em làm món gì cho tôi ăn thì tôi cũng tận tình nuốt sạch ,muôn vàn cảm tạ và nhớ ơn mãi mãi.
Tôi nhớ món bánh canh ( bột mì ) nấu với tép khô, ăn ở trong cái bếp tồi tàn ám khói . Hai đứa hì hục nhồi bột, cán bột làm bánh canh (năm đó mua lương thực không phải là gạo mà là bột mì và Bo Bo. ) Tô bánh canh trắng , những chú tép cũng trắng, và cũng chỉ có muối trắng. Nhờ tài nấu suông của em mà bánh canh ngon vô tận . Hai đứa tấm tắc ăn! Tôi thì háu ăn ,mà lại ăn nhiều, nên em Bê rất thích thú mà chiều bạn. Giờ cao lương mỹ vị -thịt cá ê hề. Làm sao tìm được hương vị "Bánh Canh xóm nghèo " thuở còn hàn vi ? ! Đúng thật. " miếng ngon nhớ lâu- Lời đau nhớ đời "


Jul 28, 2011

Vô Thường

Thơ Như Mây


Vô Thường

Sáng nay thức giấc
Đọc qua một bài
Ngẫm nghĩ thật hay
Đời người ngắn ngủi
Sinh, lão, bệnh, tử
Tất cả vô thường.

Công danh sự nghiệp
Sức khỏe tiền tài
Không gì còn mãi
Đều theo định luật
Sinh, trụ, hoại, diệt.

Muốn sống hạnh phúc
Phải biết phó thác
Trong mọi tình huống
Giữ tâm thanh thản
Tự tại bình an.

Sống sao trọn vẹn
Yêu thương, hòa đồng
Có tình có nghĩa
Giúp người nghèo khó
Cụ già cô đơn
Trẻ em khuyến tật
Xoa dịu nỗi đau
Bệnh tật hiểm nghèo.
Tránh giữ hận thù
Mở lòng thứ tha
Chính ta hưởng lợi.

Nuôi dưỡng niềm tin
Xin ơn bình an
An lành sẽ đến.

Đời nhiều chông gai
Sống là tranh đấu
Luôn mang hy vọng
Nơi này cõi tạm
Sống vui từng ngày
Thiên đàng hạ giới.

Những khi hoạn nạn
Hãy tự nhủ lòng
Mai rồi sẽ qua
Đời là vô ngã
Phải biết buông thả
Sẽ được nhẹ nhàng.

Rồi đến một ngày
Già yếu bệnh tật
Cũng phải ra đi
Theo luật tạo hóa
Nếu biết chấp nhận
Đời này ngắn ngủi
Vĩnh hằng an hưởng
Sau cuộc sống này
Mọi điều xem nhẹ
Sẽ bớt âu lo
Những gì sẽ đến.

Sao chí lý quá
Chúng mình cứ vui
Đừng quá quan tâm
Tất cả vô thường.

Như Mây (07-2011)

Cát Bụi
Ngọc Lan trình bày


Jul 27, 2011

Lịch sử chiếc áo dài.


Lịch sử chiếc áo dài

Sưu tầm của Hà Nguyên





Tiền thân

Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất củangười Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải"[1]. Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáongũ hành theo triết học Đông phương.

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát


Các bộ phận của một chiếc áo dài phổ biến
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn vớinhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ..." (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết "Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy". Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm[2], áo dài viết bằng chữ Nôm là [cần dẫn nguồn].

Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt)
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trongthành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam (Xem thêm Liên kết ngoài, bài Sự Tích Áo Dài Việt Nam). Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ ra đời quãng thập niên 1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên".

Thời vua Minh Mạng

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế...". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:

Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!

Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới[3]. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.

Áo dài Le Mur

"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).

Áo dài Lê Phổ

Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.

Áo dài với tay giác lăng


Nữ sinh mặc áo dài đến trường
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.

Áo dài miniraglan

Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.

Áo dài cổ thuyền

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hoà, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu thêm cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.

Một biểu trưng của Việt Nam


Áo dài màu trắng
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này. Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo. Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.

Trong thơ ca

Hình ảnh phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
"Ngày xưa Hoàng Thị" của Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa:
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài".
Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:

Tháng giêng em áo dài trang nhã
Tính lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Quyện theo tà lụa cả phương đông


đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma-soeur)
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh)
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":
Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau(Ngàn thu áo tím)

Trong hội họa


Thiếu nữ bên hoa huệ
Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ.

Áo dài nam

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này).

Cụ già cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giảĐào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chánh trong chính phủ: nếu buỏi lẽ mang tính cách tôn giáohay lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng.[4] Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục. Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC 2006 được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.

Hình ảnh

  • Áo dài đầu thế kỷ 20

  • Thiếu nữ bên bờ Hồ Gươm, Hà Nội

  • Việt Nam.
  • Wikipe-tan mặc áo dài
  • Tượng Đức Mẹ trong trang phục áo dài, Nhà thờ Phát Diệm
  • Nữ sinh áo dài