LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ
Người
Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là
loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt
có trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán.
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đã có những khám phá
và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của nhiều
nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục
Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có
chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).
Bộ
chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các
mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở
Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới
Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau, những hình con
nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những
âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ
Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa.
Trống đồng Đông Sơn tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp
Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... "
Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện."
Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"
Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, viết bằng chữ Khoa
Đẩu.
Chữ Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú.
Tuy
nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, luôn khát vọng
độc lập tự do,
ông cha ta từ chữ Hán tượng hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử
dụng, nhằm mục đích giữ gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại và
bản sắc văn hóa thuần túy dân tộc Việt.
Nhìn
chung Việt Nam vào thời điểm lịch sử cổ, trung đại, vẫn chưa
chính thức có trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người
Việt chúng ta ngày xưa đa số được học (nói) tiếng Việt ngay
từ lúc lọt lòng mẹ, trong sinh hoạt gia đình và thông qua
những giao tiếp hàng ngày ngoài xã hội là chính. Ở giai đoạn
này
chữ viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên các
câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài (1) nhờ
có vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương
ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi trong nhân gian và
ngày càng phong phú, súc tích.
Trong
quá trình xã hội phát triển, dân tộc Việt Nam ta đã tiếp xúc
giao lưu với nhiều dân tộc khác. Trong tiếp xúc trao đổi thông
tin với nhau, vấn đề học hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của nhau
trở nên nhu cầu cần thiết.
Vào
thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đã phải nhờ đến các cơ quan
phiên dịch ở Trung Quốc như Hội thông quán, Tứ Di quán, Tứ
Dịch quán làm nhiệm vụ phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt
Nam. Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số thứ tiếng
khác được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam Dịch
Ngữ (*) là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán với
chữ tiếng Việt.
(*)
An Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh
(nhà Minh) đặc trách giao dịch với Việt Nam từng phải triều
cống.
Giai
đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập quốc, các triều đại Vua
Việt Nam đã mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử dụng trong hành
chánh, học thuật. Tuy nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt,
không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ tiên ta
luôn tìm cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đã dựa trên chữ
Hán để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất
hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ Thượng Thư:
Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá
sấu” (2)
bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên
cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370)
được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ).
Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là
một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể
của chữ Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Tuy
nhiên, chữ Nôm
vì được cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi muốn học chữ Nôm
thì phải biết chữ Nho (chữ Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ
thông trong dân chúng, và ít được sử dụng rộng rãi.
Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du
(Sách cổ viết chữ Nôm)
Đến
giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo
phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo
sĩ đã
nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách
phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ
Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là
giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã
giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát
triển nhanh chóng.
Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/ Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử
dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/
Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 nguyên bản như sau:
Người có công hoàn thiện công trình này là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam, và “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên xuất bản vào năm 1651.
Từ điển Việt-Bồ-La
Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày (trang đầu)
Hình bìa “Sách Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày”
Link sách DOWN LOAD (Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày)
(Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf)
https://www.dropbox.com/s/ 3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG% 208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20- %20%20Cathechismvs%20%20% 20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
(Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf)
https://www.dropbox.com/s/
Ðây
là sách giáo lý được biên soạn để giúp cho các cha truyền dậy
giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng:
La tinh và Việt Nam.
Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt.
Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang.
Sách không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo trình sư phạm.
Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt.
Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang.
Sách không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo trình sư phạm.
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes
Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).
Ngài là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học.
Nhìn chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi.
Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ được hoàn chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:
(Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu của linh
mục Ðỗ Quang Chính, do nhà sách Ra Khơi xuất bản tại Sài gòn năm 1972).
Giai Ðoạn Sơ Khởi (1620-1626):
Các
nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa
thế kỷ 16. Nhưng mãi sang đến đầu thế kỷ 17 những hoạt động
truyền giáo này mới được ghi lại khá đầy đủ.
Khởi đầu, các nhà truyền giáo đã đến Hội An để giúp đỡ các
giáo hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố) thời ấy là một cảng buôn
bán sầm uất, với những phố riêng cho người Nhật và người Hoa.
Theo
sách cũ, người Âu Châu đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục
Francisco de Pina, người Bồ Ðào Nha (Portugal) (3) . Năm 1620,
với sự công tác của người bản xứ, các tu sĩ Dòng Tên
(Jésuite) tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ
Nôm. Từ năm 1621 trở đi, các
nhà truyền giáo đã bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc những địa
danh, tên tộc, và từ-ngữ Việt trong những bản tường trình cho
giáo hội về hoạt động của họ.
Dựa
vào những tài-liệu viết tay còn được lưu trữ, trong giai-đoạn
sơ khai của chữ Quốc Ngữ, các chữ thường được viết liền và
không có đánh dấu. Thí dụ:
- Annam = An Nam
- Unsai = Ông Sãi
- Ungue = Ông Nghè
- Bafu = Bà Phủ
- doij = đói
- scin mocaij = xin một cái
- Sayc Chiu = Sách chữ
- Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết
Giai Ðoạn Hai (1631-1648)
Những
tài-liệu viết tay
trong giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho
thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ
được viết cách ra và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ được viết như ta
hằng thấy ngày nay. Thí dụ như:
· Nghệ An
· Bố Chính
Nhiều chữ nhìn tương tự nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác
· Thính hoa: Thanh Hóa
· oũ bà phủ: Ông bà Phủ
· hụyen: huyện
· sãy: sãi
Ngoài
những bản tường trình, giai đoạn này còn có ba tài-liệu
quan-trọng khác. Một là biên-bản hội-nghị năm 1645 của 35 linh
mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng
tiếng Việt Nam (4) . Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh
mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim). Ba
là cuốn tự-điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của
linh mục Antonio Barbosa (5) .
Ðến
năm 1972, biên bản cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố
Dòng Tên tại La Mã (6) . Còn hai cuốn tự-điển kia, lúc đầu
được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao,
đã mất tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao
qua Manila (Phi Luật Tân), từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha).
Sở dĩ chúng ta còn biết đến hai cuốn tự-điển này là vì chính
Ðắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm
1651, đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo
cuốn tự-điển của mình.
Giai Ðoạn Ba (1649-1651):
Giai
đoạn này được đánh dấu bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc
Ngữ và việc ấn hành hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên của Ðắc Lộ
(7) . Hai cuốn ấy là:
·
Dictionarivm annamiticvm,
lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de
Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è
Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario
Apostolico, Roma, 1651, in-4°
·
Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo
dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa
tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae
Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab
Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae
Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4° . (Hết phần trích
dẫn)
Toàn Quyền Đông Dương Martial Merlin (Bên phải hình)
Mãi
cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1924 (Giai đoạn Pháp thuộc), toàn
quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) đã ký quyết định
chính thức cho dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học,
được phổ biến rộng rãi toàn quốc. Sự ra đời và truyền bá chữ
Quốc ngữ mọi nơi, trong các trường học, đã giúp cho người Việt
Nam, dễ dàng
học hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua
sách báo, nâng cao nhận thức, dân trí phát triển cao hơn và
nhanh hơn so với các nước trong vùng.
Cũng
nhờ từ đấy, người Việt, tiếng Việt đã thật sự hoàn toàn thoát
được ảnh hưởng chính sách Hán hóa của Trung Hoa đã đô hộ nước
ta trong suốt gần 1000 năm.
Học sinh trường Công giáo tỉnh Nam Định
Tinh
thần sĩ phu (Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng những
Nho
giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ Nho học và thay
đổi chữ viết từ chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đã giúp
Việt Nam chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc chữ Hán và văn
hóa Trung Hoa.
Vì
đắm chìm lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, nên có người lầm
tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh
hùng, liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa
Việt, lịch sử Việt. Các tác giả chữ Nho xưa thường dùng điển
tích về những vua quan, anh hùng,
thần thánh, phong tục, tập quán của Trung Hoa để làm mẫu mực
cho người Việt.
Nhưng
từ khi có chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn
hóa Trung Hoa, nhiều người mới có cơ hội tìm thấy lại cội
nguồn, trở lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đấy, nền
văn hóa dân tộc càng ngày càng được đề cao trong nền văn học
Quốc ngữ, trong Sử sách giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu Nữ
Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi,
Quang Trung mới là
những anh hùng đích thực, những tấm gương sáng trong lịch sử
của người Việt Nam.
Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
Trường Trung học Adran (Collège d'Adran) (3)
Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn từ năm 1861 - 1887.
Trường
ADRAN Sài Gòn, đến năm 1954 được chia thành 2 Trường Trung Học
: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
Hình một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.
Chấm dứt thời kỳ của nền giáo dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối học từ chương.
Hình Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.
Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
Giấy Khai Sinh năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
Gia Định Báo in chữ Quốc
ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn, ngày 15/4/1865.
Trương Vĩnh Ký - Pétrus Ký (1837-1898)
Khi nói
đến chữ Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam thì cũng không thể quên
công lao của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là người đầu tiên sáng
lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng
biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên:
Ông Pétrus - Trương Vĩnh Ký đã viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn như sau:
“…Thầy
Ký dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa
(Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những
người ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ
quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn
chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như
chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết không
ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học đặng chữ Quốc
ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học
một đôi tháng thì thuộc hết…”
Ông
Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo
dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri
thức uyên bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều
lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên ông được:
- Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.
- Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/ archives/pages/recherche.aspx? keyword=Truong%20Vinh%20Ky,
- Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.
- Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4)
Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...
- Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.
- Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/
- Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.
- Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4)
Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...
Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.
Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.
Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lý do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:
“… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
Các sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
Bài mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.
Chữ
Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp
dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết
trong đời sống, theo dõi sát các tin tức thời sự, các chuyển
biến thời cuộc chính trị trong
nước và thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều
đảng phái chống Pháp được thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi,
sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng chữ Quốc ngữ.
Nền
văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một
thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông
Nguyễn Tường Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập
lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và hoạt động báo
chí, khai sinh nên dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Nổi trôi
trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc
đất nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã cống hiến
nhiều vào sự phát triển Văn Học của Việt Nam
trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Toàn bộ những tác phẩm của Tự
Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và được đưa vào trong
giáo trình giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền Nam
sau 1954 mãi cho tới 1975.
Tóm
lại, ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) là phương cách để con
người giao tiếp, thông tin với nhau, hoặc diễn đạt tư tưởng
của mình cho người khác biết. Ngôn ngữ cũng là một phần của
văn hoá, là linh hồn của một dân tộc. Trải qua thời gian và
không gian, ngôn ngữ không ít, nhiều đã phải thay đổi để cho
phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hoá của xã hội.
(1)
- Ca Dao: Câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian
- Tục Ngữ: Câu nói có tính cách răn dạy hay châm biếm chuyện đời
- Châm Ngôn: Lời văn có vần điệu để khuyên đời
- Cách Ngôn: Lời nói làm khuôn phép (cách kiểu mẫu, khuôn mẫu)
- Ngạn Ngữ: Câu nói ngắn gọn của dân gian với mục đích răn dạy
- Phong Dao: Lời ca câu hát dân gian, diễn tả phong tục tập quán các địa phương.
- Phương Ngôn: Lời nói thông dụng của từng địa phương có ý nghĩa như câu tục ngữ
- Thành Ngữ: Những câu nói ngắn gọn, dùng khi nói hay viết đã được trau chuốt.
- Dân Ca: Những bài ca phát âm tiếng địa phương dân tộc, dễ hiểu và tâm tình dân tộc
(2) Văn “Tế cá sấu”
Ngặc ngư kia hỡi mày có hay
Biển Đông rộng rãi là nơi này
Phú Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây
Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa
Thánh thần nối dõi bản triều nay
Dấy từ Hải Ấp ngôi trời thay
Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày
Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy.
(3) Adran: Là Tước Hiệu của Phu tá Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc)
(4) Petrus - Trương Vĩnh Ký :
Ông đã được nhận các chức vụ và huân huy chương:
Huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863.
Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.
Huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886.
Thành viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876.
Hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878.
Huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883.
Huy chương Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886.
Huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
Huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887
Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.
Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
No comments:
Post a Comment