Tết người Bắc ở Sài Gòn xưa
09. 02. 15
Trịnh Bách
Ngoài phố…
Không
khí Tết ở Sài Gòn hồi đó bắt đầu được cảm thấy từ sau Giáng Sinh. Những
sạp bán đồ Giáng Sinh dọc các đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ thật ra vẫn
ngồi nguyên chỗ và chỉ thay đổi thiệp mừng Giáng Sinh sang thiệp chúc
Tết mà thôi. Không khí hội hè “bắc qua” này kéo dài cho đến gần Tết, khi
những khu vực bán hàng Tết thật sự được tổ chức.
Hai
khu vực vui nhất là chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ và khu vực chợ Bến
Thành. Người Sài Gòn hồi đó chỉ chuộng có vài loại hoa có truyền thống
lâu đời cho ngày Tết mà thôi. Và các chủng loại cũng đơn giản, vì các
loại hoa hợp với khí hậu miền Nam cũng không nhiều lắm. Đứng đầu luôn là
mai vàng. Sau đó là các loại cúc như đại đóa, vạn thọ, rồi thược dược
các mầu, mào gà, phong lan, địa lan… Dĩ nhiên cũng còn vài loại khác
nhưng số lượng rất ít. Cây trái thì nổi bật và chính thống nhất vẫn là
quất (tắc). Hoa Đà Lạt chuyển về cũng phần nhiều là phong lan, cúc,
thược dược, đồng tiền và họa hoằn một ít mâm xôi và phù dung. Hoa cắm
cành ngày đầu Xuân thì có lay-ơn, hoa hồng. Cũng từ Đà Lạt về nhưng các
chủng loại hoa hồng hồi đó còn hơi nghèo nàn.
Dân
chơi Sài Gòn hồi những năm đầu của thập niên 1960 vẫn còn chơi trội
bằng cách ra bãi biển Thủy Triều gần Cam Ranh để tìm cành mai rừng, cũng
tương tự như lên Sapa tìm cành đào thế ở ngoài Bắc. Dọc bãi biển Thủy
Triều trước đây là hàng cây số rừng mai vàng hoang dã rất đẹp. Thường
người ta đốn nguyên cây đem về cắm mấy ngày Tết. Những người hiếu cổ thì
vào Chợ Lớn tìm mua mấy giò thủy tiên. Hồi đó người ta chơi rễ cây
thiết mộc lan chứ không ai chơi rễ thủy tiên. Thủy tiên chỉ chơi hoa,
đơn hoặc kép. Những cái thú chơi thủy tiên là gọt, hãm và thúc. Mẹ tôi
chăm sóc thủy tiên với sự trìu mến đặc biệt. Trước hết là phải chọn giò
có số củ và hình dáng chuẩn. Sau đó gọt củ để lá và chồi hoa sẽ mọc ra
theo những dạng, thế mình muốn, thí dụ như long, ly, quy, phụng, v.v. Và
phải biết thúc hay hãm để kiểm soát thời điểm hoa nở theo đúng ý mình,
tốt nhất là ngay (bỏ chữ sau) giờ Giao thừa.
Những
ngày giáp Tết người ta dựng rạp bao quanh hai mặt phía công Trường
Quách Thị Trang và đường Phan Bội Châu của chợ Bến Thành để bán hàng
Tết. Đèn đuốc sáng trưng, trai thanh gái lịch dập dìu. Nhiều nhất là
bánh, kẹo, rượu; và nhất là mứt các loại và hạt dưa. Hàng Tết ở đây phần
nhiều là hàng sản xuất trong nước, thí dụ như khô nai, khô cá thiều Phú
Quốc; rượu dâu, rượu Mận Đà Lạt; trái cây Lái Thiêu; bột gạo lức Bích
Chi… Mỗi cửa hàng bắc loa với công suất cực mạnh để lấn át hàng xóm. Ồn
ào nhất bao giờ cũng là quầy bán thuốc đánh răng hiệu anh Bẩy Chà Hynos.
Những câu rao hàng thường ngộ nghĩnh, như của quầy bán vải: “Trăm ba
pô-pơ-lin, trăm sáu pô-pơ-lin, một trăm ba bán sáu chục”. Hay khi hàng
đồ chơi ồn ào: “Xanh xanh đỏ đỏ em nhỏ nó chơi, em nhỏ nó mừng”, thì
quầy dưa hấu bên cạnh tiếp luôn: “Xanh xanh, đỏ đỏ em nhỏ nó ăn, em nhỏ
nó cười đi”.
Những ngày giáp Tết, khu vực đường Nguyễn Huệ, trước cửa Nhà hát lớn (hồi đó vẫn còn là nhà Quốc hội).
… và trong nhà
Nhưng
cảm giác Tết thật sự bắt đầu khi người ta bắt đầu mua, trữ thực phẩm và
vật dụng cho những ngày Tết. Từ khoảng rằm tháng Chạp trở đi mẹ tôi bắt
đầu tích trữ các thực phẩm khô như măng lưỡi lợn, bóng cá, gạo nếp nấu
bánh chưng, đường làm mứt… Các loại rau, lá xanh như cải bẹ muối dưa,
hành củ, hành lá, kiệu… thường được mua ở chợ Cầu Muối. Thịt thà các
loại thì phải ra chợ Ông Tạ. Chợ này cũng là nơi cung cấp thịt cầy tơ,
cả sống lẫn chín, cho dân nhậu gốc Bắc ở Sài Gòn. Thật thú vị khi được
theo mẹ và mấy chị giúp việc đi chợ Cầu Muối ban đêm. Mùi ung ủng của
hành, kiệu để muối dưa ở những chợ đầu mối bán rau như thế này và những
ánh đèn vàng bóng tròn, khi hồi tưởng lại trở nên rất ấm áp, rất Tết đối
với tôi. Hồi đó Sài Gòn hãy còn nhiều xích lô máy. Loại xe này to hơn
và chở được nhiều hơn xích lô đạp. Một chuyến xích lô máy lạch bạch có
thể chở tất cả rau trái cho một cái Tết của mẹ tôi.
Bắt
đầu từ Tết ông Táo thì mọi chuyện trở nên cấp bách. Đây là ngày mẹ tôi
bắt đầu làm các loại mứt. Đối với những người còn sót lại từ nền văn hóa
bà Phủ, bác Phán cổ xưa thì các thức ăn, món cỗ ngoài hương vị còn phải
tỏa ra được nét tinh tế, thanh tao. Mứt không những ngon, mà còn phải
trông đẹp mắt. Mẹ tôi lúc nào cũng trung thành với những loại mứt cổ
truyền, mà quay đi quẩn lại cũng chỉ có các loại khoai, sen, gừng, bí,
chanh, quất. Không hiểu tại sao mứt cà chua cũng lọt được vào danh sách
này.
Loại
mứt phổ thông và dân giã nhất thời đó là mứt khoai lang ruột nghệ, thì
không hiểu sao nay đã hoàn toàn biến mất ở Việt Nam. Khoai lang thái lát
bán nguyệt, ngâm qua với nước vôi trong đã được gạn thật kỹ. Sau đó rửa
xả nước vôi, luộc sơ rồi để ráo trước khi xào đường trên lửa nhỏ. Đảo
đều tay đến khi khoai khô để đường có thể đóng thành lớp bột trắng, mỏng
trên khoai là được. Làm như thế lượng đường ngấm vào khoai bị hạn chế,
mứt khoai sẽ khô nhưng mềm và ngọt dịu. Muốn làm mứt khoai ướt, gọi là
mứt khoai châu, thì nhỏ một, hai giọt chanh vào đường. Chỉ thế thôi mà
khoai sẽ thấm đường nhưng không thể khô được, dù có xào thật lâu. Hiện ở
Huế cũng còn có vài nơi bán loại mứt khoai lang gọi là khoai ngào gừng.
Nhưng thường vì làm lối hàng chợ nên thô, và đường vón cục rất ngấy.
Mứt khoai trắng ở chợ Bến Thành ngày nay không khử vôi nên đường thấm
nhiều quá thành ra ngọt chát và không mềm dẻo. Chán nhất là loại khoai
phơi khô được gọi là mứt khoai dẻo ngoài thị trường ngày nay.
Gần
Tết nữa là bắt đầu việc biếu xén. Các hộp mứt, chai rượu đi vòng vo rồi
nhiều khi cuối cùng lại quay về chủ ban đầu. Ngoài những món đồ truyền
thống, thường tình, nhiều người muốn khoe sang thì ra đường Hàm Nghi,
nhưng chắc ăn nhất là vào Chợ Lớn, mua đồ kiểu cách như vịt khô ép mỏng
như cái đĩa và lạp xường ngũ vị, bát vị, v.v. Tất cả đều được tẩm rượu
mai quế lộ. Các loại rượu quý, rượu vang của Âu, Mỹ hay các loại rượu
Trung Hoa cổ (như Trúc Diệp Thanh Tửu, Hoàng Hoa, Ngũ Gia Bì…) đều được
coi trọng. Nhưng những người theo lối xưa như bố mẹ tôi lại thích biếu
họ hàng, bè bạn các loại sản phẩm do chính tay mình tạo ra. Thông thường
nhất là bánh chưng, hơi lạc loài trong rừng bánh tét.
Vì
lý do thời tiết, nên phải đợi thật muộn, thường là ngày 28 Âm lịch, mới
nấu bánh chưng để bánh còn ăn được trong ngày Tết, vì nếu bỏ tủ lạnh sẽ
bị lại gạo. Riêng lá dong gói bánh bán nhiều nhất ở chợ Ông Tạ. Mấy
loại giò (chả lụa) cũng hay được nấu ghém vào nồi bánh chưng. Và ngày
gói bánh chưng là lúc Tết hơn Tết đối với bọn trẻ chúng tôi. Bắt đầu từ
hôm nay mọi việc xem như xả láng. Các trường học, sau các hoạt động tất
niên kéo dài cả tuần lễ, đã nghỉ Tết. Quần áo giầy dép mới đã được may,
đóng và háo hức đợi được chính thức cắt chỉ. Mấy hôm này chỉ lo lượn chợ
hoa, chợ Tết. Bạn bè kéo đến chung vui với nồi bánh chưng. Lúc lửa lò
nấu bánh bắt đầu được thổi lên là vài thứ hạt dưa, mứt Tết được đem ra
cho chúng tôi, các “thợ” trông nồi bánh thử trước. Rồi trong khi trông
nồi bánh, thường là qua đêm, các loại bài bạc được chơi tự do. Tổ tôm,
mạt chược dành riêng cho người lớn. Còn các loại bài như bất, đố mười,
tam cúc, tôm cua cò cá (bầu cua cá cọp); hay bài Tây “các tê” thì của
mọi lứa tuổi, và từ bấy giờ sẽ luôn hiện diện cho đến cái lúc buồn thảm
nhất trong năm là tối mồng Ba Tết.
Cây
bài bất giống y như bài tổ tôm nhưng nhỏ hơn, và mỗi loại chỉ có một
quân bài. Ngoài các hàng văn, sách, vạn như tổ tôm, cỗ bài bất còn thêm
hàng sừng, tức là sò, với cây bài ông cụ là quân nhất sừng. Khi chơi thì
có một nhà cái gọi là trương, hay trang, chọi với từng nhà con, và tất
cả các nhà con gọi chung là làng. Cỗ bất được để úp trên một đĩa nhỏ để
mọi người rút theo lượt, mỗi lần một lá bài. Tổng số các quân bài rút,
được quyết định tùy hỷ, được cộng điểm thành 10 là tốt nhất. Trên 10 thì
bị loại, gọi là bị bất. Nếu cùng điểm thì so hơn thua theo hàng: sừng
cao nhất, sau đó theo thứ tự là vạn, sách và thấp nhất là văn. Khi tất
cả đã rút đủ bài, nhà cái (trương) so sánh hơn thua với từng nhà để thu
hay chi tiền.
Đố
mười cũng dùng cỗ bài bất. Mỗi người chơi được rút hay chia lần theo
vòng 3 cây bài. Tổng số cộng lại nếu trên 10 sẽ trừ đi 10 làm số thành.
Điểm 10 là cao nhất. Nếu cùng điểm thì cũng lại so sánh hơn thua theo
hàng. Ai cao điểm nhất sẽ thắng số tiền tất cả người chơi chung vào mỗi
ván. Đố mười hơi giống bài cào 3 lá đánh bằng bài Tây. Nói chung thì các
lối chơi bài ngày xưa hiền, nhẹ nhàng và ít sát phạt hơn so với các
dạng bài bạc bây giờ.
Đêm Giao thừa
Đêm Giao thừa
Đêm
30 là lúc Tết nhất của Tết. Càng gần giờ Giao thừa thì mọi người càng
trở nên nghiêm túc hơn, “hiền” hơn. Bố mẹ tôi tự nhiên có vẻ nghiêm
trang, nhưng nhã nhặn hơn ngày thường. Bàn thờ Giao thừa và bàn thờ gia
tiên đã sẵn sàng. Bố tôi vẫn giữ được đôi tranh Thần Đồ, Uất Lũy cũ đem
ra treo hai bên cửa ra vào dưới nhà, từ tối 30 Tết mỗi năm. Người Bắc
xưa ngày Tết treo cặp tranh Thần Đồ, Uất Lũy hay đôi tranh Tử Vi, Huỳnh
Đàn để trấn trước nhà, chứ không treo tranh Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung
như người Hoa. Cũng có năm bố tôi trổ tài vẽ và giảng giải về ba vuông
bẩy tròn và cung tên bằng vôi cho chúng tôi. Vì sân trước nhỏ, nên việc
này đành phải thực hiện ở sân sau nhà.
Rồi
Giao thừa đến. Trên radio, và sau này cả trên truyền hình, bài Ly Rượu
Mừng vang lên. Hương khói nghi ngút. Mẹ tôi trở nên nghiêm trang, thành
kính tối đa trong mỗi cử chỉ. Phấn son, nhưng mẹ vẫn mặc áo dài của năm
cũ khi cúng Giao thừa. Những kiêng cữ như tránh quét nhà, to tiếng, nói
dối… bắt đầu được tuân thủ. Trang nghiêm là đúng, vì đối với các thế hệ
cũ thì cho đến lúc ấy mọi sự tin tưởng và kiêng cữ vẫn còn là hơi thở.
Theo
phong tục cổ của người mình, thời khắc Giao thừa là giờ phút thiêng
liêng nhất của năm. Lúc trừ tịch này trên không trung phải tuyệt đối
tĩnh lặng để các thần năm cũ giao tiếp các thần năm mới. Trong khi đó
dưới đất phải đốt pháo, đánh trống chiêng, xoong, nồi các thứ thật ồn ào
để xua đuổi ma quỷ nhân đêm tối nhất của năm, khi mọi thổ, trạch thần
đều vắng mặt, mà xâm nhập làm hại thế gian. Sai nguyên tắc này sẽ không
bao giờ đạt được quốc thái dân an trong năm mới.
Lúc
mọi nhà cúng Giao thừa và gia tiên xong, ở những năm được đốt pháo,
pháo bắt đầu rền. Các bánh pháo Điện Quang, Toàn Hồng nổ giòn vang xa
gần. Mỗi đoạn khoảng 20cm pháo con lại chen một cái pháo đại. Văn hóa
đốt pháo của giới trẻ hồi đó bây giờ nghĩ lại thấy lành lắm. Nghịch nhất
cũng chỉ là úp ống lon sữa bò lên pháo rời nhặt được rồi đốt cho lon
bay lên. Dĩ nhiên cũng có những trường hợp rắn mắt hơn, nhưng cố ý làm
đau người khác thì rất họa hoằn. Thật ra lũ chó mèo là bọn oán hờn pháo
nhất. Các tràng pháo có khi dài từ lầu ba xuống đất, hoặc có khi dài
hơn. Mùi khói pháo thật tuyệt vời và rất ‘sạch”.
Sau
đó bố mẹ tôi đi lễ Giao thừa. Hướng xuất hành đã được bố tôi tra xét kỹ
từ lịch Tam Tông Miếu. Cũng có năm các cụ đi lễ Lăng Ông, nhưng thường
là đền đức Thánh Trần. Sau này tôi mới biết là do hướng xuất hành của
tùy năm. Giao thừa và ngày Tết bố mẹ tôi thường không đi lễ chùa, mà để
dành đến Rầm tháng Giêng. Người Bắc ở Sài Gòn thủa ấy hay đi chùa Vạn
Thọ. Đây là một ngôi chùa nhỏ ấm cúng bên bờ nước, hình như ở Tân Định.
Chỉ có một vài năm bọn trẻ chúng tôi theo bố mẹ đi lễ tối 30 Tết, còn
thì vừa bị khích động vì pháo, vừa còn say khói pháo nên hay ở nhà đánh
bài, ăn mứt, cắn hạt dưa. Ở các đình, đền đầu năm cũng có khi có hát
bội, mà hồi còn bé tôi rất sợ. Lại có nhiều người đi rao “đầu năm mua
muối, cuối năm mua vôi”. Hành khất thì vô số kể. Khói hương nghi ngút và
người đông đến ngộp thở. Tiếng lắc thẻ xin xăm vang khắp nơi. Khách đi
lễ ai cũng tỏ ra vui vẻ, hòa nhã. Nhưng các ông bà bán hàng đầu năm như
vôi, muối, cành lộc, hoa quả, bánh mứt, giò chả, bánh chưng, bánh tét…,
thì đon đả một cách rất Tết.
Lúc
trở về bao giờ bố mẹ tôi cũng có một cành lộc, mà chẳng hiểu tại sao
năm nào cũng là một đọt trúc đằng ngà. Vì ỷ là người được mời đi xông
đất đầu năm rất nhiều, nên bao giờ bố tôi cũng tự xông đất. Một bánh
pháo nhỏ lại được khai hỏa. Sau đó cả nhà quây quần ăn nhẹ một ít bánh
mứt và đánh bài. Lúc này bố mẹ tôi mừng tuổi (lì xì) các con. Mỗi đứa
được một phong bao, trên đó bố tôi viết sẵn rất đẹp tên từng người, và,
bằng cả chữ Việt lẫn chữ Nho, dòng chữ “nhất bản vạn lợi”. Dù lúc đó xã
hội hoàn toàn theo nền giáo dục tân học mang nhiều ảnh hưởng phương Tây,
nhưng chúng tôi luôn thấy cảm động, và luôn trân trọng những phong tục
truyền thống đẹp đẽ này.
Mồng Một Tết
Sáng
sớm mồng Một Tết được bắt đầu bằng tràng pháo đón vị khách đầu tiên của
năm mới. Quần áo mới được mọi người đem ra diện. Với bọn nhỏ chúng tôi
thì câu vui như Tết chỉ cảm thấy được đêm 30 và sáng mồng Một mà thôi,
vì những người họ hàng và bạn bè thân thiết nhất của bố mẹ tôi đều đến
chúc Tết vào buổi sáng này, và họ là những khách sộp lì xì hậu hĩ nhất.
Doanh thu của tất cả thời giờ còn lại của mấy ngày Tết sau đó thường
không bằng một phần ba buổi sáng mồng Một. Sau khi tiếp các vị khách
này, bố tôi đi chúc Tết họ hàng bè bạn, trong khi mẹ tôi ở nhà tiếp
khách. Đến gần trưa bố tôi về, và lúc đó các họ hàng và bè bạn chí thân
của gia đình đã có mặt đông đủ để dùng bữa đầu năm với chúng tôi.
Có
một cái lệ đặc biệt mà những người thuộc giòng dõi khoa bảng cũ miền
Bắc ở Sài Gòn vẫn còn giữ cho đến mãi sau này, là khi đã họp mặt đông đủ
ngày mồng Một Tết, người ta dở tấm Thăng quan đồ ra để chơi cờ Thăng
quan, loại giải trí phổ thông nhất của giới nho sỹ, khoa bảng từ ngàn
xưa, để xem vận mệnh công danh trong năm mới. Cụ Ngô Tất Tố có lẽ đã bỏ
quên món này trong tác phẩm Lều Chõng.
Bản
thăng quan đồ này to bằng một mặt bàn nhỏ. Sang thì bằng gỗ sơn son
thếp vàng có thể gập đôi lại được. Thường thì in trên vải hay giấy. Trên
đó chia thành nhiều ô ghi cấp bậc của hệ thống quan chế triều đình ngày
xưa, từ thấp nhất là Hàn lâm Đãi chiếu (tòng cửu phẩm văn giai) cho đến
cao nhất là Thái tử Thái bảo (trên nhất phẩm, đầu triều). Mỗi người
chơi nhận quân của mình rồi gieo xúc sắc (xí ngầu) mà đi. Chung quanh ô
của mỗi cấp bậc đều có các ô mà sa vào đấy sẽ được thăng, hay bị giáng,
phạt thế nào. Ai đạt đến Thái tử Thái bảo trước hết cả là thắng. Bản bố
tôi giữ được không phải thuộc hệ thống triều Lê, mà từ thời Tự Đức. Cờ
Thăng Quan hồi đó đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, và trong Sài Gòn hồi ấy
có thể mua ở các tiệm tạp hóa của người Bắc ở chợ Ông Tạ. Hình như bàn
cờ Thăng Quan bố tôi có hồi ấy chỉ có văn ban chứ không có võ ban. Năm
1992 tôi có mua được một bản Thăng quan đồ in trên giấy từ một cửa hàng
tạp hóa ở Cửu Long, Hong Kong. Nhưng bản đó lại theo quan chế Minh
triều, Trung Quốc, và cũng chỉ có văn ban.
Rồi
cỗ bàn lúc nào cũng sẵn sàng, một phần nhờ ơn cái tủ lạnh. Ngoài những
món truyền thống cố hữu của ngày Tết như bóng, chân giò ninh măng, thang
cuốn, giò chả, bánh chưng, hành kiệu, thịt thà…, vì tổ tiên họ Trịnh
chúng tôi ngày xưa xuất phát từ Thanh Hóa nên mẹ tôi còn được các cụ
truyền cho vài món cỗ Tết đặc biệt của vương thất xứ Thanh xưa, như sơn
hào hải vị thang, nộm sứa khô bát vị, v.v. Đây là những món dùng nguyên
liệu khô có thể nấu được trong những ngày Tết không có họp chợ. Nguyên
liệu nấu những món này như gân nai, hải sâm trắng, giò lụa lợn rừng, sứa
khô, vẫn còn mua được ở Sài Gòn thủa ấy. Những món đơn giản hơn là nem
ngang, giò lòng.
Nem
ngang hơi giống như nem Phùng hay nem bì của các vùng Hà Tây, Nam Định,
Ninh Bình. Thịt lợn thật tươi cắt miếng vừa phải, luộc hơi tái bên
ngoài, nêm với ít nước mắm, thấm thật khô, thái nhỏ, rồi băm dập đi bằng
sống dao. Bì lợn thái sợi với lượng nhiều nhất là bằng lượng thịt. Mỡ
giắt luộc thái nhỏ hạt lựu. Thính giã thô. Tất cả trộn đều rồi nắm thật
chặt lại bằng nắm tay. Nem ngang bao lót bằng lá ổi chứ không dùng đinh
lăng như ở vài nơi khác. Sau đó gói bằng lá chuối đã rửa thật sạch, lau
và phơi khô thật kỹ rồi buộc lại. Khác với nem bì nấu chín ăn ngay của
Nam Định, nem ngang Thanh Hóa phải đợi ít nhất ba ngày cho chín, nghĩa
là hơi chua, mới dùng. Ngon nhất là cuốn bánh tráng với rau diếp, húng,
thơm, mùi (ngò) cho thật chặt, rồi thái khúc. Khi ăn chấm nước mắm ngon
pha tỏi ớt.
Làm
giò lòng thì lòng lợn, khấu đuôi, bao tử cắt mở dọc ra thành lá cắt
khúc, và bì heo đã bỏ sạch mỡ thái nhỏ, với chút nước mắm, hạt tiêu, rồi
để ráo. Nấu bì heo cho đến khi thành hồ, giống như làm thịt đông. Trộn
lòng, bao tử đã sửa soạn sẵn như trên và ít hạt tiêu vào nấu nhừ. Rồi để
ráo, cho vào hồ bì trộn kỹ và gói lá chuối cho thật chặt. Sau đó luộc
chín trở lại. Một phiên bản khác là trộn các thứ lòng, bao tử đã sửa
soạn như trên đã hầm kỹ, để ráo và ít hạt tiêu vào nửa phân lượng giò
sống đã nêm. Gói thật chặt, buộc kỹ rồi luộc chín như luộc giò bình
thường. Thử tưởng tượng ngày xưa khi chưa có tủ lạnh, nếu không có không
khí lạnh giá của miền Bắc thì loại giò này có thể giữ được bao lâu. Và
hồi ấy người ta vẫn còn dùng hàn the mà chưa biết sợ.
Chiều
mồng Một bố mẹ tôi bắt đầu cùng nhau đi chúc Tết họ hàng, bè bạn. Chúng
tôi ở nhà tiếp khách để nhận lì xì. Bắt đầu từ chiều hôm nay cho đến
chiều ngày mồng Ba Tết, đường phố bắt đầu có nhiều người hơn. Các nhóm
Sơn Đông mãi võ lưu động, phần nhiều là người Hoa, đi múa lân và biểu
diễn võ thuật kiếm tiền thưởng khắp thành phố. Chiêng trống inh ỏi.
Người Sài Gòn múa lân (không phải sư tử) vào dịp Tết Nguyên Đán chứ
không phải Trung Thu như ở Huế và ngoài Bắc. Tối ba ngày Tết nhiều đình,
đền ở Sài Gòn và các vùng phụ cận có tổ chức hát bội. Vẫn ăn uống, bài
bạc, nhưng bắt đầu từ tối mồng Một Tết, không khí thiêng liêng của ngày
Tết đã bắt đầu nhạt.
Từ mồng Hai Tết
Sang
đến ngày mồng Hai Tết thì câu “ngày vui qua mau” đã bắt đầu được cảm
thấy. Vẫn có khách đến chúc Tết, ăn uống, bài bạc, nhưng sự háo hức
không còn nữa.
Mồng
Ba Tết bắt đầu phải ăn bánh chưng rán. Khách chờ đến ngày hôm nay mới
đến chúc Tết có vẻ hơi thẹn, gượng gạo. Chủ nhà vẫn niềm nở nhưng quần
áo, thái độ không còn được chăm chút như hai ngày đầu. Bọn trẻ thì tên
nào mặt mũi cũng buồn rười rượi. Đến sau khi mẹ tôi hóa vàng tối mồng Ba
thì tiếng Tết gần như bị tránh nhắc đến, mặc dù các hội hè nhiều nơi
vẫn được tổ chức cho đến Rằm tháng Giêng. Để ý kỹ thì dường như thường
thường tối hôm mồng Ba bố mẹ tôi không giấu được nét mệt mỏi và tiếng
thở dài nhẹ nhõm, có lẽ vì đã thoát được ba ngày giữ gìn, kiêng cữ và
đóng bộ hết mức. Chưa kể đến sự tiêu pha đến xót ruột và công sức bỏ ra
trong cả tháng trời trước đó.
*
Cùng một tác giả:
- Vài điều về những bức tranh trong sách Đại Lễ Phục Việt Nam thời Nguyễn
- Nguồn gốc các mũ Phật giáo phổ thông ở Việt Nam
- Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật – phần 1: Vắn tắt về lịch sử Phật giáo
- Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật – phần 2: Nội dung những lời giảng ở Sarnath (Lộc Uyển)
- Tết Trung thu
- Về Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh (bài 1): Vài lưu ý trong các bản Hán văn
- Bài 2: Luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh
- Lễ phục Việt Nam, bài 1: Âu phục?
- Lễ phục Việt Nam một thời: Áo dài
- Tết người Bắc ở Sài Gòn xưa
- Mật chú Aom (Án): chấn động rung và âm thanh nguyên thủy
- Nguồn gốc các mũ Phật giáo phổ thông ở Việt Nam
- Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật – phần 1: Vắn tắt về lịch sử Phật giáo
- Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật – phần 2: Nội dung những lời giảng ở Sarnath (Lộc Uyển)
- Tết Trung thu
- Về Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh (bài 1): Vài lưu ý trong các bản Hán văn
- Bài 2: Luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh
- Lễ phục Việt Nam, bài 1: Âu phục?
- Lễ phục Việt Nam một thời: Áo dài
- Tết người Bắc ở Sài Gòn xưa
- Mật chú Aom (Án): chấn động rung và âm thanh nguyên thủy