Mặc dù trí nhớ đã khá hao mòn nhưng Như Mai cũng xin thêm thắt một vài chi tiết mà Mai còn nhớ được như sau:
- Năm đệ Thất 1963 -1964 vì vụ đảo chánh nên việc học của tụi minh có bị gián đoạn một thời gian, cũng như năm đệ Tam 1967-1968, vì biến cố Tết Mậu Thân tụi mình cũng ở nhà ít lâu mới được đi học lại.
- Tụi mình tuy học cùng một cấp lớp nhưng đôi khi lại học với những thầy cô khác nhau. Như năm đệ thất, lớp A3 tui Mai học Việt văn với Cô Bích Thanh, phu nhân của GS Đinh Từ Thức, chứ không học với cô Kim Thi hay cô Tuyết Nga như lớp A1 của Mình Tâm.
Đệ Tứ A3 Mai nhớ học Việt văn với cô Liên Dung. Cuối năm, ngồi ký học bạ, cô bảo “ Các cô bây giờ lớn rồi, trông không giống như hình lúc thi vào lớp đệ Thất, về chụp hình mới mà dán vào học bạ đi.” Rồi cô cũng bảo riêng Mai, “ lấy riềng giã với rau răm rồi ngâm rượu bôi cho hết long ben đi, con gái lớn rồi sao lại để mặt mũi như thế”.
Đệ Tam C và đệ Nhị C cô Vũ Tố Lan vừa là giáo sư hướng dẫn vừa dạy tụi Mai Việt văn. Bạn Kim Cúc tuy học lớp Nhị B nhưng quyền luyến cô lắm, hay rủ Mai tới thăm gia đình cô ở căn nhà dưới chân cầu Công Lý. Cho tới mấy năm gần đây Mai vẫn thường liên lạc với cô Tố Lan. Có lần tình cờ cô trò gặp lại nhau tại khoá tu của thầy Hằng Trường bên Maryland, cả hai đều khóc sướt mướt ngay tại hội trường đông đúc những người là người. Lúc đó chồng cô vừa mất chưa tới 49 ngày còn ông Hùng nhà Mai cũng qua đời trước đó không lâu. Đáng buồn là mùa Xuân 2022 Mai sang Virginia, ghé thăm cô thì thấy cô đã bắt đầu nhớ nhớ, quên quên chứ không còn tinh anh như ngày xưa nữa. Thời gian, tuổi tác chẳng từ một ai, phải không các bạn?
Môn Anh văn năm đệ Thất, lớp A3 tụi Mai học với cô Hoàng Ngọc Thành ( sau này nghe Mỹ Điệp bên Úc kể chuyện sau 75 dạy chung trường với cô, nên mới biết tên thời con gái của cô Thành là Thân thị Nhân Đức),
đệ Lục học AV với cô Cao Hương, đệ Ngũ với cô Phúc, đệ Tứ học cô nào Mai không nhớ, đệ Tam học cô Thanh, đệ Nhị học cô Dần. Cô Dần là em cô Ngọ, cô Ngọ dậy lớp Lục A 3 tụi Mai môn Sử Địa. Cô Lệ Tuyết thì dậy Sử Điạ lớp Tứ A 3.
Mai nhớ mãi một kỷ niệm vui vui với cô Lệ Tuyết, sau này, nhân dịp cô sang Montreal chơi, Mai đã nhắc lại chuyện xưa cho cô nghe. Kỳ thi lục cá nguyệt năm đệ Tứ, Trần thị Xuân Thu vốn thông minh, đọc bài, hiểu, tóm tắt ý chính nên trả lời bài thi vỏn vẹn trong một tờ giấy careau 4 trang. Còn Mai học như con vẹt, viết đúng từng câu từng chữ trong sách vở nên bài thi của Mai dài kín 2 tờ giấy careau tức là 8 trang. Thế mà khi cô phát bài ra, Xuân Thu với Mai đều được 19 điểm như nhau. Mai ấm ức quá, lên khiếu nại với cô, “ Thưa Cô, bài em viết dài 8 trang, bài bạn Thu có 4 trang thôi, sao lại đồng hạng ạ?” Các bạn thấy con nít có ngây ngô không ?
Năm đệ Nhị C tụi Mai học Vạn vật với cô Oanh, Toán với thầy Lân, Công dân với cô Hồng và Pháp văn với cô Ánh. Giáo sư hoàn toàn không giống với giáo sư lớp Nhị B của Bạch Mai hay Nhị A1 của Mình Tâm.
Đến năm đệ Nhất thì bộ Giáo dục bắt đầu thay đổi cách gọi, lớp đệ Thất thành lớp 6, đệ Lục thành lớp 7…thành ra tụi mình thành học sinh lớp 12 chứ không phải là lớp đệ Nhất nữa.
- Năm đệ Thất, cuối năm học, 15 em đứng đầu lớp Thất A3 trong đó có Bạch Mai, Ngô Hồng Châu được lên lớp đệ Lục A2, còn 15 em đứng cuối lớp A3 thì lên lớp đệ Lục A4. Tương tự, 15 em đứng đầu lớp Thất A 4 như Huỳnh thị Ngọc Bích, Xuân Thu, Kim Cúc , Minh Khiết…từ Thất A4 lên Lục A3. Nhưng bắt đầu năm tụi mình học đệ Lục thì việc này chấm dứt, ai học lớp nào thì học luôn lớp đó cho tới năm đệ Tứ.
- Mai nghĩ từ đệ Thất đến đệ Tứ bên Anh văn tụi mình có đủ từ lớp A1 tới A4, còn bên Pháp văn Mai không rõ P3 sau này có ghép chung với P1, P2 không.
- Ban C tụi Mai học chuyên về Văn chương và Ngoại ngữ ( cả hai thứ tiếng Anh và Pháp), sang đệ Nhất thì thêm môn Triết (gồm Tâm Lý, Đạo Đức và Luận lý).
- Năm đệ Tam, các bạn Pháp văn vì không có đủ sĩ số để mở Tam C hay Tam B Pháp văn nên theo ban B như Minh Quang thì bị chuyển sang Gia Long, còn theo ban C thi qua Lê Văn Duyệt học, trong số đó có Nguyễn Minh Thu, Nguyễn Thục Thúy Nga. Còn em Minh Quang thì đổi sang học ban A để ở lại TV.
- Lớp Tam C Anh văn của Nguyệt Minh, Di Linh, Như Mai, Trà Linh, Đặng Thị Liễu, Vũ thị An…thì thu nhận thêm học sinh các trường khác chuyển về như Trần thị Hương, Lý thị Phượng, Kim Dung, Mai Phương từ Mạc Đĩnh Chi. Sau Tết Mậu Thân có thêm Hồ Minh Hoa, Ngọc Anh, …từ Huế vào học.
Năm đệ Nhị thì có một số bạn trường Pháp xin chuyển qua trường Việt, chung lớp C với tụi Mai có Chữ Ngọc Mai Anh, Vũ thị Gấm.
Kỳ thi Tú Tài I lớp C tụi em cũng đậu gần hết lớp nhưng vẫn không đủ học sinh để mở lớp Nhất C Anh văn. Vì vậy, tụi Mai bị chia làm hai, ai ở SG ( như NMinh, DLinh, Trà Linh, Như Mai ) thi qua Gia Long học, còn ai ở Gia Đinh thì qua Lê Văn Duyệt.
Lúc đó tụi Mai khóc hết nước mắt, vào văn phòng bà hiệu trưởng liên tục năn ni, van xin cho được ở lại TV mà học nhưng không được. Ngày tựu trường đành ôm cặp sang Gia Long, ngấm ngầm phản đối bằng cách không đeo cái huy hiệu Gia Long trên mép áo.
Đã thế giáo sư hướng dẫn lớp 12 C1 Gia Long, ngay ngày đầu tiên, không biết trước đó có thù hằn gì với dân TV hay không mà buông lời phê bình độc địa, nào là “ cứ như dân đứng đường, ăn mặc hở hang, v..v..” nên 15 đứa TV tụi em tức quá, hết giờ học, kéo nhau lên văn phòng bà hiệu trưởng GL vừa khóc vừa xin gởi trả chúng em về TV. Cuối cùng chính bà Hiệu trưởng GL đứng ra dàn xếp tụi em mới chịu trở vào lớp 12C1 mà học. Cũng vì chuyện đó mà 15 đứa TV ban C lạc loài bên GL thân thiết với nhau hơn, học hành chăm chỉ hơn cho khỏi hổ danh con cháu hai Bà.
Ít hàng chia sẻ cùng các bạn, nếu nhớ thêm điều gì Như Mai sẽ kể tiếp nha.
Mến,
Như Mai 3/16/24
****************************************************
Phạm Thanh 3/18/24
1- Đệ Thất AP2
Toán: cô Kim Chi
Lý hoá: cô Hoà
Công dân: cô Bình Minh
Việt văn: cô LK Ngọc Quỳnh, cô Ngọc Diệp, cô Kim Thi
Pháp văn: cô Tuyết
Nữ công: cô Thục
Nhạc: cô Thục Khang
Sử địa: ?
2- Đệ Lục AP2
Lý hoá: cô Đào
Pháp văn: cô Xuân Đào
Toán: cô Xuân Ba
Sử địa: cô Vượng
Công dân: cô Mộng Ngọc
Nhạc: cô Nguyệt Lãng
Việt văn: cô Bảo
Nữ công: cô Trinh
3-Đệ Ngũ AP2
Lý hoá: cô Thái
Toán: thầy Lân
Việt văn: cô Tuý
Sử địa: cô Lệ Khanh
Pháp văn: cô Nại
Nữ công: cô Trinh
Công dân: ?
4- Đệ Tứ AP2
Sử địa: cô Lệ Tuyết
Công dân: cô Tố Lan
Pháp văn: cô Vân, cô Đoan
Lý hoá: cô Nở
Toán: cô Phương Tần
Việt văn: cô Lệ Khanh
Nữ công: cô Trinh
5- Đệ Tam AP2
Vạn vật: cô Chi Hương
Pháp văn: cô Đoan
Anh văn: cô Thi
Toán: cô Ngà
Sử địa: cô Tố Lan
Việt văn: cô Lệ Khanh
6- Đệ Nhị AP2
Pháp văn: cô Vinh
Anh văn: cô Thi
Toán: thầy Khôi
Lý hoá: thầy Thơ
Vạn vật: thầy Đoàn
Sử địa: Cô Ngọc Trâm
7- Đệ Nhất AP2
Lý Hoá: thầy Thơ
Vạn vật: thầy Đoàn
Pháp văn: cô Vinh
Anh văn: cô Oanh
Luận lý học: cô Mỹ Hiền
Đạo đức học: cô Gia Lai
Toán: Cô Túy Nga