Đặc San TV6370 vừa nhận được bài nghiên cứu Nguồn Gốc Người Việt của Giáo Sư Đoàn Văn Phi Long. Chúng em xin cám ơn Thầy và xin đăng lên Đặc San TV6370 để giới thiệu đến độc giả khắp nơi
NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT
CHƯƠNG 1
Nhà Thương
(Shang 1766 TCN–1122 TCN)
Nhà Thương tiếng Quang Thoaị là Shang hay Shaang rõ ràng không phải nhà Châu, nhà Tần,
Hán; cũng không phải nƣớc của ngƣời Iu Mien vì Khuyển Nhung đánh nhau với nhà Châu đã
đƣợc đề cập đến trong một số thƣ tịch cổ nhƣ trong Quốc ngữ: "Thời Chu Mục Vƣơng, thế lực
của Khuyển Nhung dần dần tăng mạnh, vẫn thƣờng xung đột với nhà Chu, Mục Vƣơng dự tính
việc chinh phạt Khuyển Nhung, Sái công Mƣu Phụ can gián nhà vua: "Không nên, Tiên vƣơng
chủ trƣơng không động binh, giấu phu binh mà chờ thời cơ, tạo uy phong, quan sát chờ đợi, mà
không làm chấn động". Mục Vƣơng không nghe, sau ra quân thảo phạt, giành đƣợc chiến thắng
bất ngờ, bắt sống năm vua Khuyển Nhung. (TK1)
Khuyển Nhung âm BK là quản (hay kwản) róng tức là Chó nhung mà chó còn gọi là cẩu QT là
gõu gần đồng âm với Iu mà ngƣời Trung Hoa gọi là Dao. Vậy Khuyển Nhung là Iu Mien mà
Bình Nguyên Lôc̣ cho là ngƣời Khmer.
Nhà Thƣơng phải là một tộc lớn không thể xuất hiện rồi đôṭ nhiên biến mất. Tộc Thái ở Trung
Hoa đƣ́ng hàng thƣ́ nhìvềmăṭ dân số có mặt khắp Đông Á: Ngƣời Thái ở Ấn Đô, ̣ ở Miến Điện,
ở Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Việt Nam, Thái Lan, Lào (từ Vân Nam tràn tới chiếm
đất của ngƣời Khmer vào thế kỷ 13).
Ta haỹ tìm một nhân nổi tiếng ngƣời Thái ở Trung Hoa, nhƣ Dƣơng Quý Phi của Đƣờng Huyền
Tông chẳng hạn, để xem nhân vật này có ở khu vực gần nhà Thƣơng hay không.
Tƣ́ Đaị mỹnhân Trung Quốc gồm có Tây Thi vớ
i nét đẹp làm cá phải lặn (trầm ngƣ), Vƣơng
Chiêu Quân khiến chim nhạn mãi ngắm nhìn quên bay nên rơi rớt (lạc nhạn), Điêu Thuyền đẹp
đến nỗi trăng cũng phải khép, núp vào mây (bế nguyệt, che mặt trăng), Dƣơng Quý Phi mỗi khi
ngắm hoa, hoa đều rũ héo vì hổ thẹn. Dƣơng Quý Phi huy hiêụ làThá
i Chân tên là Dƣơng
Ngọc Hoàn thuộc tộc Thái sinh tại tỉnh Tứ Xuyên(719 TK- 756 TK, 37 tuổi) xuất thân trong
gia đình quan lại sống ở Thiểm Tây.
Tƣ́ Xuyên tỉnh li ̣làThành Đô, thờ
i nhà Thƣơng đãxuất hiêṇ hai nƣớc Ba vàThuc̣ , sau thành
Ba Thuc̣ thờ
i Tam Quốc.(TK 2)
Nhƣ vậy ngƣời Thái đã có mặt tại Tứ Xuyên và Thiểm Tây, khu vƣc̣ nhà Thƣơng Chu, ít nhất
thời nhà Đƣờng và ngƣờ
i Thƣơng có
thể làThá
i. Bình Nguyên Lộc trong ―Nguồn gốc Mã Lai
của VN‖ không đúng khi cho nhà Thƣơng là Việt.
Tên Shang, Shaang hay Shan tuy khác nhau môṭ chú
t nhƣng chỉ
là môṭ, do cách phá
t âm hay
chƣ̃viết biến đổi theo thờ
i gian, không gian. Shan còn có
thể biến thành Chan, Jang còn Thái
trở thành Đaị, Tai, Tay, Tầy. Trong chƣơng ―Ý nghiã
tƣ̀ Viêṭ‖ ta đãthấy Human chuyển thành
Mon- Khmer, H‘Mong- Iu Mien, Miao- Dao, Mƣờng- Viêṭ, Mọi- Mán, Nguồn (Ngƣờ
i),
Hokkien, Yuè, Duyêṭ, Viêṭ.
Không thấy có bang nào tên Shang nhƣng có rất nhiều bang Shan ởrải rác vùng Đông Á.
Trung Hoa: Vân Nam ngày xƣa có nhiều nƣớc hùng mạnh nhƣ nƣớc Đại Lý của tộc Bạch trong
tiểu thuyết kiếm hiêp̣ Kim Dung. Sau khi Đaị Lý
tàn luị bang Shan ngƣờ
i Thá
i xuất hiêṇ , ngƣời
Shan là hậu duệ của nhánh ngƣời Thái cổ xƣa nhất, đó là ngƣời Tai Long hay Thai Yai (ngƣời
Thái Lớn), nƣớc Nam Chiếu tôc̣ Bac̣ h tƣ̀ng tấn công Giao chỉ
thờ
i nhà Đƣờng, Nùng Trí Cao
ngƣờ
i Thá
i Nùng ở Cao Bằng xƣng Nhân Huệ Hoàng đế đánh Lƣỡng Quảng, hiêṇ còn đền thờ
Khâu Sầm ở Cao Bằng.
Miến Điêṇ : Các chức vị trong hoàng tộc cũ của Shan hôm nay tạo thành tiểu bang lớn nhất tại
Myanmar thành lập từ thế kỷ thứ 10 TK, nằm ở phía đông bắc của đất nƣớc, dƣới chân núi
hùng vĩ đầu tiên của cao nguyên Shan, có thể đạt độ cao hơn 2.000 mét. Phong cảnh miền núi
này rất đẹp, và khí hậu ôn hòa của bang này khiến những ngƣời Anh đô hộ rất thích. (TK 3)
Assiam ở Ấn Độcó nhiều sắc tộc cƣ ngụ trong đó có một số nhóm Thái nhƣ sau
Tai Lung / Ahom: Ngƣời Ahom là con cháu của dân tộc Thái, những ngƣời đã đi cùng với
hoàng tử Thái Sukaphaa vào thung lũng Brahmaputra trong năm 1220 và cai trị khu vực này
2
trong sáu thế kỷ. Sukaphaa và những ngƣời theo ông đã thành lập vƣơng quốc Ahom 600 năm
(1228-1826) và triều đại Ahom cai trị và mở rộng vƣơng quốc.
Những ngƣời Ahom hiện đại mang văn hóa của họ là một sự pha trộn của gốc văn hóa Thái,
bản địa Tạng-Miến và Ấn Độ giáo. Đa số những ngƣời theo Hoàng tử Sukaphaa là nam giới
(lính) sau đó kết hôn với phụ nữ địa phƣơng thuộc một số nhóm dân tộc, trong đó có ngƣời
Tạng-Miến, những ngƣời nói tiếng Borahi sau đó đã hoàn toàn đƣợc gộp vào các cộng đồng
Ahom. (TK4)
Xiăm: Có rất nhiều giải thích nguồn gốc từ này nhƣ ―ngày xƣa Thái Lan có tên là Xiăm trong
tiếng Thá
i đƣơc̣ cho là có nghiã
là tự do‖, ―Tỉnh Xiêm Rệp của Campuchia có nghĩa là Xiêm
dẹp vì bị quân Xiêm tàn phá‖ .Theo Bình Nguyên Lộc trong cuốn "Nguồn gốc Mã Lai của dân
tộc Việt" thì tên xƣa của Thá
i Lan nhƣ sau
Việt Nam: Xiêm hay Xiêm La, Chàm: Syăm, Cao Miên: Syăm, Mã Lai: Syămbu
Xiăm phát xuất tƣ̀ đâu ? Có hai dẫn chứng từ hai nguồn khác nhau
Dâñ chứng 1 do hôị các ngườ
i Thá
i VN (TK4 )
Thai Khamyang, còn đƣợc gọi là Shyam, là một nhóm sống chủ yếu Assam. Dân số của họ
tổng cộng khoảng 7.000 trong đó chỉ có một phần nhỏ nói tiếng bản địa Tai Khamyang. Ngƣời
Khamyang là tín đồ của Phật Giáo Nguyên Thủy và là liên quan chặt chẽ đến nhóm Khamti.
Tai Khamyangs, nhóm hay đƣợc gọi là Noras, ngƣời có dòng dõi Thái. "Khamyang" xuất phát
từ "kham" (vàng) và "yang" hay "jang" (Ở Việt Nam mình từ này còn gọi là Nhăng = còn, tồn
tại) nghĩa là có, và có nghĩa là "ngƣời có vàng. Nhiều ngƣời Khamyang sử dụng
"Shyam" cùng ý nghĩa với "Siam" ở Thái Lan làm họ của mình.
Dâñ chứng 2 (TK 5)
Xin trở laị bang Assam, tiếp sau sự di cƣ của một nhánh Thá
i đến đông - bắc Ấn Độ vào đầu
thế kỷ XIII, từ ―siam‖ đƣợc gọi theo hai cách. Trƣớc hết là tên gọi chỉ vùng đó
, Assam (đất của
ngƣời Siam), trong thƣ tịch Ấn Độ đƣợc viết thành sama. Rồi trên tƣ̀ Asama, đƣợc chuyển
thành Ahome tên gọi chỉ ngƣời Tay ở Assam.
Về phía đông của khu vực ngôn ngữ Thá
i, từ ―Siam‖ trƣớc hết dùng để chỉ bộ tộc tiền tiêu của
ngƣời Thái tại khu vực này. Cách viết Sayam/syam và cách đọc sajam cho thấy từ này đi vào
ngôn ngữ Thái dƣới hình thức viết, ngƣợc với trƣờng hợp của ngƣời Shan và Ahom là chữ viết
ghi theo cách phát âm của ngƣời ngoại tộc.
Vâỵ là
tƣ̀ Xiăm, Siam tên xƣa cũ của Thái Lan có gốc từ chữ Assam từ thế kỷ XIII.
Ngoài ra còn có căn cứ xác đáng trong ghi chép của Chu Đạt Quan, một ngƣời Trung Quốc
đƣợc triều đình nhà Nguyên phái đến Angkor tƣ̀ 8/1296-7/1297. Khi mô tả xứ Campuchia, ông
có nói đến một nƣớc ở thời kỳ Sukhothai là Xiêm La (Xian Lúo) đó hẳn là tên gọi của Siam.
Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của ngƣời Thái, một trong số đó liên hệ ngƣời
Thái tới sự di cƣ ào ạt sau sự sụp đổ của vƣơng quốc Đại Lý ở vùng Vân Nam thế kỷ XIII đã bị
chứng minh là không chính xác. Các nghiên cứu ngôn ngữ học chỉ ra rằng nguồn gốc của ngƣời
Thái cổ nằm ở vùng ranh giới Quảng Tây-Quý Châu ngày nay, nơi ngƣời Tráng và Bố Y vẫn
sinh sống. Khoảng thế kỷ thứ VIII-thế kỷ X, họ bắt đầu di cƣ xuống phía nam vào vùng ngày
nay là bắc Lào, sau đó tỏa xuống đồng bằng sông Chao Phraya. dần thay thế vai trò của Đế chế
Khmer đang tàn lụi (vào thế kỷ XIII – thế kỷ XV). Giả thuyết này không giải thích đƣợc tên
Siam của Thá
i Lan vìkhông thấy nƣớc nào tên Siam ở Trung Quốc xƣa và nay.
Lờ
i bàn: Có vài chi tiết khá kỳ lạ nhƣ sau
1. Theo sử sách Thái Lan, ngƣời Thái xuất xứ từ vùng núi Altai tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc từ
4500 năm trƣớc sau đó di cƣ dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan, tiếng Turk là Altay ,
trong đó Al là vàng, tay là nú
i, tƣ́c là nú
i vàng. Turk tiếng Trung Hoa là Đôṭ Quyết gồm Turkey
tƣ́c Thổ NhĩKỳ
, Uyghur, Tatar, Kazakstan…
Tại sao ngƣời Thái biết mình phát xuất từ vù ng nú
i Altai, đông bắc Tƣ́ Xuyên, sát nách Thiểm
Tây, là vùng đất nhà Thƣơng (1766 TCN-1122 TCN, gần 4000 năm) mà các học giả Tây , Ta,
Tàu, và cả ngƣời Thái đều không biết nhà Thƣơng là Thái. Thâṭ vâỵ Trung Hoa cho ngƣờ
i Thá
i
từ Quý Châu di cƣ xuống Vân Nam.
2. Tên xƣa Siam của Thá
i Lan sao laị có nguồn gốc tƣ̀ Assam ở Ấn đô?̣
Chỉ còn một cách giải thích là mọi nhóm Thái đều có cổ sử hay ít nhất chuyện truyền kỳ ghi
chép Thái có tên cổ là Siam, và sử Thái Lan ghi họ có gốc tích từ vùng núi Altai.
Tất cả các bang Shan hay Siam đều làThá
i nên ngƣờ
i Shang phải là Thái.
3
Ngƣờ
i Thá
i năng đôṇ g, chiến đấu giỏi và
theo chính sách ―Ngoaị giao cây sâỵ ‖ nghiã
là khi
chiếm đƣợc một nƣớc thì dùng chữ viết, tôn giáo, phong tuc̣ của dân bản xƣ́ nên í
t bi ̣chống đối,
bằng chƣ́ng cu ̣thể khi ngƣờ
i Thá
i tràn xuống tƣ̀ daỹ nú
i Altai ở Tƣ́ Xuyên chiếm Thá
i Lan của
Mon Khmer thìho ̣hòa mình vào dân bản điạ bằng cách dùng chƣ̃viết, tôn giáo, phong tuc̣ của
Mon Khmer. Chính sách này lại đƣợc xữ dụng khi Thái Lan đụng độ với thực dân Anh Pháp
thà cam chịu mất 40% đất nhƣng đãgiƣ̃đƣơc̣ Vƣơng quốc vàsƣ̣đôc̣ lâp̣.
Nhà Hạ
Trƣớc nhà Thƣơng là nhà Ha ̣(Xiạ) ở vào thời kỳ đồ đá, trong thờ
i kỳ bô ̣lac̣ chƣa lâp̣ thành
nƣớc, chƣa có chƣ̃viết, có rợ Đông di ở phía đông. Ngƣờ
i Trung Quốc cũng không biết dân nhà
Hạ là ai.
Vài đầu mối cho thấy dân nhà Hạ là dân H‘Mong và Iu Mien vì sử cổ Trung Hoa ghiTam Miêu
nhƣ sau: ―Trong Hán ngữ thời Thƣợng Cổ, Tam Miêu không phải ba loại Miêu mà
là H‘Mong
và Nam Man làIu Mien. "Chiến Quốc sách-Ngụy sách" chép rằng vị trí của Tam Miêu: phía
đông hồ Động Đình. Thời kỳ Nghiêu Thuấn, nƣớc lụt tràn ngập, Miêu thừa cơ nổi loạn tại
Đông Nam, cùng với Hoan Mâu, Cung Công, và Cổn gọi chung là Thiên hạ "tứ tội". Thuấn
phái Vũ đi hàng phục dân Miêu song không đạt đƣợc kết quả. Thuấn trong những năm cuối
từng tự thân nam chinh, trên đƣờng bệnh mất tại Thƣơng Ngô. Vũ kế tục sự nghiệp chinh Miêu,
cùng quân Miêu đại chiến kéo dài trong 70 ngày, chế phục quân Miêu, bình định Tam Miêu‖
(TK 6)
Nhà Hạ không có chữ viết nên kém phát triển hơn Lạc Việt ở Quảng Tây, tuy ở cùng thờ
i đồ đá
nhƣng đãcó chƣ̃viết trên đádo ở gần VN dùng chƣ̃khoa đẩu của VN. Dân Ha ̣là dân MiaoDao tƣ́c H‘Mong-Iu Mien. Tên Nghiêu gần vớ
i Iu tƣ́c là Dao, Hoan Mâu gần vớ
i H‘Mong.
(TK6)
Chữnhà Thương
Đây là triều đại đầu tiên đƣợc công nhận về mặt lịch sử là một triều đại Trung Quốc.
Khoảng năm 1300 trƣớc Công Nguyên chữ viết đầu tiên đƣợc biết đã xuất hiện ở nền văn minh
nhà Thƣơng - họ đã phát triển chữ viết có hơn ba nghìn ký tự, một phần là tƣợng hình và một
phần là tƣợng thanh. Suốt thời nhà Thƣơng (1600 TCN -1050 TCN) không có sử viết để lại
chứng minh là chữ Hán đƣợc phổ biến thời đó.
Các sử gia đều không biết dân nhà Thƣơng là ai nên không biết nguồn gốc chữ nhà Thƣơng và
nhà Hạ không có chữ viết nên chữ nhà Thƣơng cũng không có gốc tƣ̀ nhà Ha.̣
Bây giờ
ta đãbiết nhàThƣơng làThá
i nên chƣ̃nhà Thƣơng là do ngƣờ
i Thá
i mƣơṇ chƣ̃Khoa
đẩu của ngƣờ
i Viêṭ Nam. Đó
là
lý do tại sao chƣ̃nhà Thƣơng đã đạt đến giai đoạn ―hội ý‖ mà
không qua các giai đoạn căn bản thuần túy tƣợng hình và chỉ sự nào cả. Vâỵ chƣ̃Hán không có
nguồn gốc tƣ̀ chƣ̃Thƣơng theo quan niêṃ thông thƣờng của ngƣờ
i Trung Hoa mà có gốc gác tƣ̀
chƣ̃Khoa Đẩu của Viêṭ Nam. (TK 7)
Tham khảo
1. Khuyển Nhung vi.wikipedia.org/wiki/Khuyển_Nhung
2. Dƣơng Quý Phi vi.wikipedia.org/wiki/Dƣơng_Quý_Phi
3. Bang Shan ở Miến điêṇ vi.wikipedia.org/wiki/Shan
4. Các nhóm Thái sinh sống tại Assam Đông Bắc Ấn, bài viết do ngƣời Thái VN sống ở hải
ngoại.
vi-vn.facebook.com/TuHaoDanTocThai/posts/1037469766268981:0
5. Tên Siam vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-CN/Ve-ten-goi-cua-nguoiXiem-19907.html
6. Nhà Hạ vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Hạ
7. Xin xem chƣơng Chƣ̃Khoa Đẩu
No comments:
Post a Comment